KIẾN THỨC PHẬT HỌC
- KINH - LUẬT - LUẬN -
- KINH - LUẬT - LUẬN -
💠 TÂM KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT (Chú Giải)
TÂM KINH
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
TÂM KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT
(PRAJNAPARAMITAHRIDAYA SUTRA)
CHÚ GIẢI:
v Bát Nhã: là Trí Tuệ.
v Ba La Mật: là đến bờ bên kia.
v Đa: là định tĩnh.
v Kinh: là chơn lý, đường tắt. Kinh nay chỉ con đường tắt định tâm vậy.
Đức Bồ Tát Quán Tự Tại khi Ngài thật hành sâu xa về trí tuệ Bát Nhã, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, liền qua tất cả khổ ách.
Nầy Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác với không, không chẳng khác với sắc, sắc tức là không, không tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cũng lại như vậy.
Nầy Xá Lợi Tử, tướng không của các pháp ấy chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhơ, chẳng sạch, chẳng thêm, chẳng bớt…thế nên trong cái không đó, nó không có sắc, không có thọ, không có tưởng, không có hành, không có thức, (và nó cũng) không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. (Nó cũng) không có sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Không có nhãn giớ cho đến không có ý thức giới (tức là không có 18 giới). Không có cái vô minh mà cũng không có cái hết vô minh. Cho đến nó không có lão tử mà cũng không có cái hết lão tử; không có khổ, tập, diệt, đạo, cái trí cũng không có và cái được cũng không, (không như vậy) là vì nó không có chỗ được.
Bồ Tát nương nơi trí huệ cứu cánh nầy, tâm không ngăn ngại, không có sợ hãi, xa lìa tất cả những điều điên đảo, các mộng tưởng, được Niết Bàn rốt ráo.
Các Đức Phật trong ba đời đều nương theo trí tuệ Bát Nhã nầy, mà được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Thế nên biết rằng, trí tuệ rốt ráo nầy là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, hay trừ tất cả khổ, chân thiệt không giả dối. Cho nên nói chú Bát Nhã Ba La Mật Đa, liền nói chú rằng: Yết Đế, Yết Đế, Ba La Yết Đế, Ba La Tăng Yết Đế, Bồ Đề Tát Bà Ha.
CHÚ GIẢI:
· Quán Tự Tại là thế nào? (Avalokitesvara), biến hóa từ tâm, thông suốt quán sát tự đặng.
· Bồ Tát (Boddhisattva) - nghĩa là giác hữu tình. Nghĩa lý dã giảng giải đầy đủ ở trước. Có nghĩa là thường giác ngộ tất cả chúng hữu tình.
· Chữ Uẩn là chứa nhóm; sắc, thọ, tưởng, hành, thức, gọi đó là năm uẩn. Toàn Kinh chú trong một câu nầy.
· Độ tất cả khổ ách, gồm cả tự độ, độ tha mà nói.
· Xá Lợi Tử (Sariputra) là tên người.
· Nhơn sắc mà có thọ, nhơn thọ mà có tưởng, nhơn tưởng mà có hành, hành mà không được thì hiểu biết cùng tâm tánh khó quên, năm thứ nầy nó nương tựa cùng nhau.
· Các pháp tướng không là thế nào? Tức là chân tánh có mà chẳng có, không nhưng chẳng không. Ấy là tướng không của các pháp. Chân tánh nhiều kiếp không hư hoại, cho nên nó không sinh không diệt. Chân tánh xưa nay không nhiễm, cho nên nó không cấu không tịnh; chân tánh không trụ trước một vật gì, nên nó không tăng không giảm.
· Nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý – gọi là sáu căn
· Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp – gọi là sáu trần.
· Mọi sự vật đều vin nơi ý mà phát khởi, cho nên sự vật thuôc về ý. Hoặc nói sự vật cùng ý pháp khởi đồng thời, tức là phát động vậy, cung chung liên quan mật thiết với nhau về phần vọng động.
· Chỗ thấy của mắt là nhãn giới, chỗ biết của vọng tâm là ý thức giới.
· Vô lão tử là sao? Là thường còn không hoại diệt.
· Khổ tức là các phiền não.
· Tập là chứa nhóm, là nguyên nhân, chứa nhóm muôn tội nghìn lỗi ỏ trong thân thế người ta.
· Hai cái khổ - tập là quả khổ và nhân khổ.
· Diệt – là tịch diệt, Niết Bàn.
· Đạo là con đường, cung như nói con đường tu hành để đạt đạo.
· Hai cái nầy gọi là quả vui vào nhân vui. Tiếng Phạn gọi là Bodhisattva. Trung hoa dịch la Giác hữu tình.
· Chữ Niết (nir) là không sanh;
· Chữ Bàn (vana) là không tử.
· Chữ A là không; chữ Nậu Đa La (Nuttara) là thượng có nghĩa là cao nhất.
· Chữ tam (sam) là chánh, chữ miệu (yak) là đẳng.
· Tam Bồ Đề (Sambodhi0 là chánh giác.
· Yết đế, yết đế (gate, gate) là chơn lý nhiệm mầu để độ chúng sinh. Nói Yết Đế hai lần, ý nói độ mình và độ người.
· Tăng là tăng tiếng.
· Tát bà ha – có nghĩa là nhanh chóng. Nghĩa là việc làm nhanh chóng thành tựu cứu độ cho tất cả chúng sanh.
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
Quán Tự Tại Bồ Tát, hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thế khổ ách.
Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức, diệc phục như thị. Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới. Vô vô- minh, diệc vô vô-minh tận. Nãi chí vô lão tử; diệc vô lão tử tận. Vô khổ tập diệt đạo; vô trí diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố; Bồ Đề tát đỏa, y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố; tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết Bàn. Tam thế chư Phật, y Bát Nhã Ba La Mật Đa, cố đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Cố tri Bát Nhã Ba La Mật Đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú; năng trừ nhất thiết khổ, chơn thiệt bất hư. Cố thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa chú, tức thuyết chú viết: Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha (3 lần).
GIẢNG RỘNG: Tôn giả A Nan nói: Đức Thế Tôn chỉ dạy chúng ta có đức Quán Tự Tại Bồ Tát công hạnh tu hành rất sâu, đầy đủ đại trí tuệ, tạo căn bản đến bờ bên kia, soi thấy năm uẩn chính mình cùng năm uẩn chúng sinh đều không có thật. Đối với mình thì tu đến Vô Thượng Bồ Đề, đối với người thì nhiều phương tiếp dẫn, khiến qua tất cả khổ não, được về con đường giải thoát. Đệ tử thượng túc của Phật là Ngài Xá Lợi Phất chính là muốn lìa khổ ách, Bồ Tát gọi danh Ngài mà bảo rằng:
- Xá Lợi Tử, ông biết trong thế gian những gì có hình là sắc, vô hình là không, không biết sắc kia chính là mộng, huyễn, bào, ảnh, chẳng khác gì với không; không là nhất chân hiển lộ, chẳng khác gì với sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc. Luận về nhơn sắc mà có thọ, nhơn thọ mà có tưởng, nhơn tưởng mà có hành, hành đó không thông thì thức đối với tâm không quên. Năm cái nầy nhơn nhau mà sinh ra vọng kiến. Nay sắc đã là không thì thọ tưởng hành thức, cũng lài như vậy. Do đó, chân tánh thường thanh thường tịnh, mảy may không pháp tướng có thể xưng gọi, không thật là tướng không trong các pháp ư? Luận về chỗ mầu nhiệm kia thì thường còn bất biến, không sinh không diệt, trạm nhiên trong sáng, không nhơ không sạch; tự nhiên tốt đẹp không tăng không giảm. Vì thế, cho nên trong tánh chơn không đã không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức, thì sáu căn đều thanh tịnh, không nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Sáu trần không nhiễu loạn, không sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Đầu mối khổ lụy của sáu căn, do nhãn căn đứng đầu, nay nhãn giới đã không thì muôn trần duyên đều dứt, rồi ý giới cũng quên luôn. Các việc nhận định đều do định mà được yên tĩnh, do yên tĩnh mà phát sanh trí tuệ; không có vô minh, cũng không có sự hết vô minh. Nhờ lâu mà bền chắc, do bền chắc mà an nhiên; không có lão tử, cũng không có hết lão tử. Quả khổ của phiền não là do nhân khổ tác nghiệp; quả vui của Niết Bàn do nhờ nhân vui tu trì, một thời đều dứt! Trong tính chân không, vốn không có danh từ trí tuệ, đến bờ bên kia cũng thuộc về hư giả, thì lại đâu có đắc ư? Song mà không trí không đắc, từ đâu đã đặng bồ đề mà nói ra. Trước khi chưa được, đâu có thể nào không pháp ư? Sở dĩ nói Bồ Đề tát đỏa là vì trí tuệ đến bờ bên kia, nhờ phương pháp tu hành, giữ gìn sáu căn, dứt hẳn sáu trần, nên tâm không trệ ngại, xa lìa các sự điên đảo thần thức, vọng tưởng mộng mị, đến chỗ bất sinh bất tử mới thôi. Chẳng những Bồ Tát làm như thế, mà các Đức Phật trong ba đời, muốn đặng Vô Thượng Bồ Đề, cũng phải y nơi trí tuệ đến bờ bên kia. Thế nên biết rằng trí tuệ đến bờ bên kia là mật ngữ biến hóa không lường, là mật ngữ thần quan phổ chiếu, mà mật ngữ chí cực vô thượng, là mật ngữ độc tuyệt vô luân.
Tôn Giả A Nan đã nói:
- Hay trừ tất cả khổ ách, lời nói ấy chân thật không hư dối. Lại nữa có mật chú các ông mỗi thời phải trì tụng, có thể được phát sanh trí tuệ, được đến bờ giải thoát bên kia. Thần chú nói: Gate, gate, lưu xuất chân lý nhiệm mầu để độ chung sinh. Lời lập lại có ý nghĩa độ mình độ người. Ba la yết đế, muốn đến bờ kia, cần phải nhờ chân lý nhiệm mầu nầy. Chữ tăng ở đây lá chúng, là đông, là thêm vậy. Tát bà ha là nhanh chóng, nghĩa là tu hành nhanh chóng để thành tựu cho tất cả chúng sinh.
Tóm lại, mật chú dù là con đường tắt tu hành, nhưng không ngoài tâm niệm mỗi người; Ai hay không vướng, không chấp năm uẩn kia, thì chủ nhân ông thường định, rồi dũng cảm tự thanh, làm gì mà không được Bồ Đề ư?
HẾT
💠 BÁT NHÃ TÂM KINH QUA CÁI NHÌN DUY THỨC (Thích Thắng Hoan)
💠 BÁT NHÃ TÂM KINH GIẢNG GIẢI (Hoà Thượng Thích Thanh Từ)
BÁT NHÃ TÂM KINH GIẢNG GIẢI
Hoà Thượng Thích Thanh Từ
Thiền viện Thường Chiếu
LỜI ĐẦU SÁCH
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó, để thấy pháp xưa nay bình đẳng và rồi một phen các hành giả đủ cụ nhãn sẽ thể nhận chân lý hoát thông giải thoát.
Bộ Bát-nhã 600 quyển của ngài Huyền Trang, một bậc Thánh triết đã dày công sưu tầm Phạn bản từ Ấn Độ và đã dịch sang Hán ngữ vào giữa thế kỷ thứ VII, đời Đường. Đồng thời quyển Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật-đa Tâm kinh, gọi tắt là Bát-nhã Tâm kinh, cũng được vị pháp sư Thánh triết này chuyển sang văn Hán. Tuy vỏn vẹn chỉ có 260 chữ, nhưng nội dung hàm chớa cả thực chất, là viên bảo châu vô giá của chánh pháp Như Lai.
Từ khi bộ kinh thần diệu này có mặt ở Trung Hoa, nôi Phật giáo Bắc truyền Đông Á, chẳng những chư Tổ Không tông tích cực quảng bá, mà liệt Tổ các phái cũng lấy đó làm chỗ lập cước để hoằng dương Phật pháp, mở cửa Đại thừa, Tốithượng thừa, dọn một con đường thông suốt thẳng vào đất trời pháp giới thể tánh Chân Không. Lại, một phen giúp các hành giả trong Tông môn thật sự từ đây, một nhảy vào thẳng đất Như Lai, cũng khiến biết bao chuyên gia chuyên thu cái hay, nhặt cái quí của pháp bảo, phải choáng mắt, kinh tâm trước cửa mở vào chân trời thậm thâm Bát-nhã với bạt ngàn hoa thơm cỏ lạ.
Riêng bộ Tâm kinh này, cho dù chỉ có 260 chữ, mà vẫn đảm nhận vai trò cương lĩnh của Thánh giáo. Thời khóa tu tập xưa nay của các hành giả trong tù�ng lâm, Tổ Tổ đều công nhận không thể vượt qua kinh này được. Có lẽ do đây mà có quan niệm Tâm kinh là kinh bổ khuyết các kinh trong mọi thời khóa khi hành trì.
Nay tại các Thiền viện ở Việt Nam, Hòa-thượng Viện trưởng chủ giảng kinh này, là bài pháp mở đầu cho các khóa thiền tại các Thiền viện Chân Không, Thường Chiếu. Bộ Bát-nhã Tâm kinh Giảng giải Việt văn này được ra mắt quí vị độc giả vốn ngưỡng mộ nó lâu nay, và lần ra mắt này với sự đóng góp ghi chép, tu chỉnh của các thiền sinh, hy vọng bản kinh sẽ hoàn bị hơn.
Thiền viện Thường Chiếu, ngày 26-08-1997.
Kính ghi,
THÍCH NHẬT QUANG
BÁT NHÃ TÂM KINH GIẢNG GIẢI
Hoà Thượng Thích Thanh Từ
Thiền viện Thường Chiếu
I - GIẢNG ĐỀ KINH
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
Bát-nhã Tâm kinh nói đủ là Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh, gồm một phần chữ Phạn phiên âm là Ma-ha
Bát-nhã Ba-la-mật-đa và một phần chữ Hánlà Tâm kinh.
Ma-ha, Trung Hoa dịch là đại, nghĩa là lớn. Bát-nhã là trí tuệ. Ba-la-mật-đa là đáo bỉ ngạn, nghĩa là đến bờ kia, gần đây dịch là cứu kính. Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật-đa là trí tuệ rộng lớn cứu kính.
Tâm kinh là kinh nói về tâm. Nếu hiểu rõ thì Ma-ha bát-nhã ba-la-mật-đa tức là tâm kinh. Vì sao? Vì trí tuệ rộng lớn cứu kính, còn gọi là trí tuệ Bát-nhã, tức là Tâm vậy.
Trong kinh Bát-nhã có nói: Bát-nhã vô tri vô sở bất tri, nghĩa là Bát-nhã không biết mà không chỗ nào chẳng biết. Không biết tức Bát-nhã đối với cảnh không khởi vọng thức phân biệt. Không chỗ nào chẳng biết vì Bát-nhã là trí tuệ hằng sáng hằng giác dụ như gương sáng, tất cả cảnh vật hoặc người qua lại đều hiện rõ ràng không thiếu sót. Biết mà không khởi vọng thức phân biệt là cái biết của Tâm.
BÁT NHÃ TÂM KINH GIẢNG GIẢI
Hoà Thượng Thích Thanh Từ
Thiền viện Thường Chiếu
II. GIẢNG VĂN KINH
Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Khi Bồ tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã ba-la-mật-đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, liền qua hết thảy khổ ách.
Trong đây khó nhất là chữ Không. Toàn bộ Đại Bát-nhã gồm 600 quyển, rất rộng rất nhiều, ở đây vì bài kinh rút quá gọn, nên người đọc khó nhận ra được ý nghĩa.
Soi thấy năm uẩn đều khôngbằng cách nào?Chữ Không ở đây là soi thấy năm uẩn đều không có tự tánh, chớ không phải là không ngơ hay là chân không .
Không ngơ là không có gì hết, tức là chấp không. Hiểu chữ Không như vậy là sai lầm, không đúng tinh thần Bát-nhã là phá chấp, phá chấp có và phá chấp không.
Không nếu hiểu là chân không lại không ổn, vì chân không không thể giải thích bằng ngôn ngữ văn tự được.
Để hiểu rõ chữ Không, chúng ta cần biết qua ba thời kỳ Phật giáo:
1- Sơ kỳ Phật giáo: Giải thích pháp Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, cho đây là chân lý. Như thế là còn nằm trên hình thức, nói về tướng hoặc có, hoặc không, hoặc thiện, hoặc ác v.v.
2- Trung kỳ Phật giáo: Nói về lý tánh không tức là lý Bát-nhã.
3- Hậu kỳ Phật giáo: Nói về lý chân không diệu hữu.
Chữ Không trong Bát-nhã là không tự tánh, hay không tánh. Học Bát-nhã là học về lý tánh không. Tánh không là gì ? Tánh là danh từ chỉ cái gì cố định, bất di bất dịch. Tánh khôngchỉ tất cả pháp thế gian này đều không có cái gì cố định, bất di bất dịch, nghĩa là hằng đổi dời, không thật. Tinh thần Bát-nhã chống lại nghĩa tánh hữu, tức là các pháp đều có tự tánh, đều cố định, đều là thật. Quan niệm tánh hữu là không đúng theo lý Bát-nhã.
Các pháp thế gian không cố định nên không phải là thật, do duyên hợp nên không phải là không ngơ.
Soi thấy năm uẩn đều khôngtức là soi thấy năm uẩn đều không có tính cách cố định. Khi soi thấy năm uẩn đều không cố định, nên qua hết tất cả khổ nạn. Vì sao? Vì tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay bị bệnh chấp ngã.
Bệnh thứ nhất của chấp ngã là chấp thường nhất. Chấp thường nhất là mỗi người đều chấp thân tâm mình thật có, tức là thường còn thường nhất không thay đổi. Thử hỏi trong chúng ta, ai thấy được con người mình luôn luôn thay đổi? Từ thuở bé đến ngày nay khôn lớn bốn, năm mươi tuổi, con người mình khi trước và ngày nay là một hay là hai? Nếu nhận thấy nó không khác, là thường nhất, gọi là chấp ngã. Nhưng kiểm lại xem con người mình về tâm sanh lý từ lúc bé thơ đến tuổi già nua có thật là thường nhất, có thật là không thay đổi, có thật là một chăng? Nhận xét như vậy mới biết chấp ngã là một quan niệm sai lầm của con người .
Bệnh thứ hai của chấp ngã là chấp chủ tể. Chấp chủ tể tức là chấp mình làm chủ trọn vẹn con người mình về cả hai mặt sanh lý và tâm lý. Ai cũng thầm nghĩ thân này là của tôi, tức là tôi làm chủ nó trọn vẹn, cũng như tôi có cái nhà và bàn ghế trong nhà, tôi làm chủ trọn vẹn tức là tôi có trọn quyền sử dụng nó không ai ngăn cản hay sửa đổi được.
Nhưng tôi có thật sự làm chủ con người tôi hay không? Về mặt sanh lý, tôi luôn luôn muốn cho thân thể được khỏe mạnh hồng hào, nhưng đôi khi nó cũng bị đau yếu nhức nhối, đòi hỏi phải thuốc thang chữa trị. Như vậy tôi đâu có thật làm chủ thân tôi. Về mặt tâm lý, tôi không làm chủ được tư tưởng của tôi. Như trong lúc ngồi thiền tôi suy nghĩ miên man hết việc này đến việc khác, tôi muốn tâm thanh tịnh mà có mấy khi được như vậy.
Hai quan niệm chấp ngã: Ngã là thường nhất và ngã là chủ tể, là hai quan niệm sai lầm và lệch lạc. Do bệnh chấp sai lầm này nên chúng ta đau khổ. Nếu chúng ta nhận thấy rõ con người mình không thường nhất và không có chủ tể là chúng ta phá được bệnh chấp ngã.
Trong thời sơ kỳ Phật giáo, để phá bệnh chấp ngã, đức Phật bảo thân này do tứ đại hòa hợp là cho những người thiên chấp về vật chất, thân này do ngũ uẩn hòa hợp là cho những người thiên chấp về tinh thần.
Nếu thân này đã do tứ đại hòa hợp, tức là đất nước gió lửa hòa hợp, thì thân này không có nghĩa là thường nhất được. Trong bốn đại, không đại nào làm chủ, nên biết thân này không có chủ tể.
Nếu thiên chấp về tâm, Phật dạy thân này do ngũ uẩn hòa hợp, tức là ngoài sắc uẩn chỉ cho thân, còn có bốn uẩn thuộc phần tâm lý là: thọ, tưởng, hành, thức.
Thọ là cảm giác, lãnh thọ. Ví dụ khi mắt nhìn thấy cảnh đẹp, mình nhận đây là cảnh đẹp, rồi vui thích gọi là thọ lạc của mắt, khi nhìn cảnh xấu, mình nhận đây là cảnh xấu và cảm thấy chán ghét gọi là thọ khổ của mắt. Khi tai nghe tiếng nhạc hay tiếng khen, mình cảm thấy vui thích gọi là thọ lạc của tai, nếu nghe tiếng dở và tiếng chê, mình cảm thấy ghét giận gọi là thọ khổ của tai. Như vậy khi mắt tai mũi lưỡi thân ý tiếp xúc với sáu trần bên ngoài, khi cảm thấy vừa ý và vui thích gọi là thọ lạc, khi cảm thấy trái ý và chán ghét gọi là thọ khổ. Cảm nhận sự vui buồn thương ghét gọi là thọ uẩn, tức thuộc phần tâm lý hay tâm thức.
Tưởng là những nghĩ tưởng về các cảnh đã thấy, như khi chúng ta tưởng lại các cảnh đã thấy ở thành phố hay núi non, thì các cảnh ấy hiện ra với mình. Hoặc khi chúng ta tưởng đến việc vị lai, thì những việc ấy hiện ra với mình. Như vậy những nghĩ tưởng trở về quá khứ hay hướng đến tương lai là thuộc về tinh thần hay tâm thức.
Hành là những suy tư tiếp nối miên man sanh diệt chẳng dừng ở một điểm. Như khi chúng ta đang suy nghĩ một vấn đề gì, tâm tư chúng ta luôn luôn nghĩ từ việc này sang việc khác liên tục không ngừng, như người bộ hành đi đường, bước này tiếp nối bước kia không dừng. Hành cũng thuộc về tâm thức.
Thức là cái phân biệt. Ví dụ mắt thấy sắc, phân biệt là đẹp là xấu, tai nghe tiếng, phân biệt là hay là dở v.v. Phân biệt gọi là thức, thuộc về tinh thần.
Thọ, tưởng, hành, thức bốn uẩn này thuộc về tâm. Vì tâm do bốn uẩn kết hợp không thể là thường nhất, cũng không có chủ tể, vì không uẩn nào là chủ. Tại sao năm thứ đều gọi là uẩn? Uẩn nghĩa là chớa nhóm hay tích tụ. Sắc chớa nhóm bốn đại hay tích tụ bốn đại, thọ chớa nhóm sáu thọ của sáu căn.
Trong thời sơ kỳ Phật giáo tức là thời kỳ nguyên thủy, Phật thuyết pháp vô ngã để phá bệnh chấp ngã về thân và tâm. Con người chúng ta là tướng duyên hợp do tứ đại hay ngũ uẩn kết hợp không thật, nên không thường nhất và không chủ tể. Vô ngã là không có một cái ngã thường nhất và chủ tể.
Nhiều người hiểu lầm nghĩa vô ngã, cho rằng vô ngã là không ngơ tức là không có mình, không có thân này. Nếu không có thân này thì ai đang sống đây, ai đang hoạt động, ai đang thọ khổ thọ vui? Có thân này nên chúng ta mới có cảm giác nóng lạnh, đau nhức hay êm dịu; có tâm này nên chúng ta mới cảm nhận, suy tư hay phân biệt. Nhưng thân và tâm này là do duyên hợp tạo thành, nên không thường nhất và không chủ tể, gọi là vô ngã.
Lại có nhiều người nghĩ lầm thân tâm mình, từ xưa đến nay là một không biến đổi, mình làm chủ mình hoàn toàn, mình được tự tại, không ai có quyền làm chủ mình. Nhưng thật sự thể xác và tinh thần chúng ta, từ xưa đến nay đã đổi thay không biết bao nhiêu lần và chúng ta thật sự có bao giờ làm chủ chúng ta đâu! Nếu chúng ta nhận không đúng lẽ thật mà khăng khăng bám chặt vào quan niệm sai lầm, gọi là chấp. Có một quan niệm sai lầm về thân và tâm là thường nhất và có chủ tể, gọi là chấp ngã. Và chấp ngã là nguyên nhân của tất cả khổ đau trong cuộc đời.
Đến giai đoạn thứ hai là thời trung kỳ Phật giáo, đức Phật không còn nói thân này không thật, do tứ đại hay ngũ uẩn duyên hợp giả có, mà đức Phật đi thẳng vào năm uẩn, soi thấy từng uẩn một đều không cố định. Vì mỗi uẩn không có tánh cố định, luôn luôn biến chuyển và đổi dời nên không thường nhất, không chủ tể, còn gọi là không tự tánh. Năm uẩn còn không cố định huống là cái hợp thể do năm uẩn hợp lại tức là thân, là bản ngã của chúng ta làm sao cố định được.
Lấy một ví dụ cho dễ hiểu là bàn tay chúng ta. Năm ngón tay co lại hợp thành nắm tay, nắm tay này không cố định, nếu cố định thì đâu đợi năm ngón co lại mới hợp thành? Nếu xòe bàn tay chia ra từng ngón một thì đâu có nắm tay. Năm ngón co lại thành nắm tay, thử hỏi ngón tay nào là chủ của nắm tay? Trong năm ngón không có ngón nào làm chủ, nên nghĩa chủ tể của nắm tay không thành được. Nắm tay do năm ngón co lại nên không thường nhất, nếu thường nhất thì đâu đợi năm ngón co lại mới thành, nếu thường nhất thì khi xòe bàn tay ra từng ngón một, nắm tay ở đâu? Cái thường nhất có còn không?
Như vậy nghĩa thường nhất của nắm tay cũng không. Nắm tay trước không có, do duyên hợp tạm có, duyên tan thì mất, không thường nhất, không chủ tể, nên gọi là không cố định.
Tiến sâu hơn, chúng ta không nhắm vào nắm tay nữa, mà nói từng ngón tay, mỗi ngón tay có thật hay không? Có đủ hai nghĩa thường nhất và chủ tể hay không? Mỗi ngón tay cũng là tướng duyên hợp do xương gân máu thịt hợp thành, nên không có đủ hai nghĩa thường nhất và chủ tể. Một ngón tay không thường nhất và không chủ tể, năm ngón tay cũng thế, huống là nắm tay. Ngón tay là đơn vị hợp thành nắm tay, chính mỗi ngón tay ấy cũng là một hợp thể, cũng là tướng duyên hợp tạm bợ không thật, không cố định.
Đức Phật đi thẳng vào từng uẩn một của thân năm uẩn, soi thấy mỗi uẩn đều không cố định nên gọi là soi thấy năm uẩn đều không, liền qua hết thảy khổ ách. Làm sao qua được khổ ách? Khổ ách gốc từ đâu mà có? Nếu hỏi ai khổ thì trả lời tôi khổ, tôi bị tai nạn. Tôi là gì? Là bản ngã, là cái tôi trước sau như một, là cái tôi làm chủ. Nếu cái tôi trước sau như một, gặp điều gì trái sở thích gọi là khổ, gặp việc gì làm nó bị suy giảm gọi là nạn. Sở dĩ có khổ nạn là vì chấp bản ngã, nếu bản ngã không còn thì khổ nạn còn không? Bản ngã không còn không có nghĩa là không ngơ, mà có nghĩa là không cố định. Bởi bản ngã không cố định vì là tướng duyên hợp, bởi là tướng duyên hợp nên tạm bợ hư dối, đổi dời luôn luôn không dừng; không chủ tể, không thường nhất, đó là nghĩa "vô ngã". Nếu ngay nơi năm uẩn, thấy rõ mỗi uẩn luôn luôn đổi dời không chủ tể và không thường nhất, thì cái thân do năm uẩn hợp lại làm sao có chủ tể và thường nhất được. Nên nói soi thấy năm uẩn đều không, tất cả khổ nạn theo đó liền dứt.
Nếu chúng ta thấy rõ thân này, về sanh lý cũng như tâm lý đều là tướng duyên hợp đổi dời không cố định, thì mới biết thân này là hư dối không thật, cái ngã này là hư dối không thật. Và những gì đến với cái ngã hư dối không thật này, dù là tốt xấu hay vui buồn cũng đều hư dối không thật, thì còn gì gọi là khổ ách nữa. Nên nói soi thấy năm uẩn đều không, liền qua hết tất cả khổ nạn.
Người tu hành chỉ cần soi thấy năm uẩn đều không là qua hết khổ nạn, là được giải thoát. Nhưng chúng ta phải soi trong thời gian bao lâu mới thấy năm uẩn đều không? Bồ-tát Quán Tự Tại hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa thời. Soi đây là hành, thâm là sâu xa đến bao giờ thâm nhập được trí tuệ Bát-nhã, khi ấy xem thấy năm uẩn đều không cố định nên tất cả khổ nạn đều qua.
Trên đường tu tập Bát-nhã, chúng ta soi thấy năm uẩn đều có rõ ràng, như vậy lời Phật dạy không đúng sao? Đó là vì chúng ta chưa hành thâm Bát-nhã, thâm đây không phải năm mười ngày, đôi ba tháng hay hai ba năm, thâm đây là thâm nhập sâu xa trí tuệ Bát-nhã, khi ấy xem thấy năm uẩn đều không cố định nên tất cả khổ nạn đều qua.
Sở dĩ chúng ta đau khổ là vì mê lầm về bản thân nên sanh chấp ngã. Với trí tuệ Bát-nhã chúng ta thấy đúng như thật thân tâm này là tướng hư dối, luôn luôn biến chuyển không cố định, nên không còn mê chấp nữa. Không mê lầm chấp ngã nên hết khổ nạn. Giả sử có ai gọi tên ta và sỉ vả đủ điều, nếu chúng ta dùng trí tuệ Bát-nhã thấy đúng như thật thân tâm là tướng hư dối, không còn chấp ngã thì các đau khổ liền dứt. Người học Phật phải thấy đúng như vậy, vì đó là căn bản của sự tu hành.
Xá-lợi tử sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
Này Xá-lợi-phất! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế.
Đến đây Phật đi vào chi tiết, bảo ngài Xá-lợi-phất: Sắc uẩn chẳng khác với không, không chẳng khác với sắc uẩn. Không đây chẳng phải là không ngơ, hay trống không như hư không. Không đây là không tự tánh tức là không cố định. Sắc uẩn là phần thân tứ đại, thân tứ đại này là tướng duyên hợp đổi dời không cố định. Chính bản chất thân tứ đại này không cố định, nên không khác với không. Nếu thân tứ đại là cố định tức khác với không rồi. Cho nên nói sắc uẩn chẳng khác với cái không cố định và cái không cố định chẳng khác với sắc uẩn.
Ví dụ cái bàn là tướng duyên hợp nên không cố định, như vậy cái không cố định chẳng khác với cái bàn. Vì sao? Vì ngay nơi cái bàn tự nó đổi dời sanh diệt nên không cố định, và cái không cố định là sẵn nơi cái bàn và ngay nơi cái bàn. Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc là như vậy.
Sắc tức là không, không tức là sắc.
Trong đoạn trước còn so sánh, thấy dường như hai, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Đến đây Phật chỉ thẳng chính sắc uẩn là không cố định, không cố định chính là sắc uẩn. Nghĩa là thân tứ đại này là tướng biến đổi không cố định, không cố định là thân tứ đại này. Nếu thân tứ đại cố định thì không diệt, nhưng thân bị sanh diệt tức bản chất nó không cố định.
Như cái bàn này là không cố định, cái không cố định tức là cái bàn này, không phải rời cái bàn này có cái không cố định ở ngoài.
Nhiều người cho rằng sắc là sắc, không là không, vì sao lại nói sắc tức là không, không tức là sắc? Phải hiểu chữ không đây là không cố định, là sanh diệt đổi dời.
Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế. Nghĩa là thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn, bốn uẩn này cũng lại như thế. Thọ uẩn chẳng khác với không cố định, không cố định chẳng khác với thọ uẩn, thọ uẩn tức là không cố định, không cố định tức là thọ uẩn. Tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn cũng đều như vậy, chẳng khác với không cố định và tức là không cố định.
Xá-lợi tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.
Này Xá-lợi-phất, tướng không của các pháp, không sanh không diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt.
Tướng không của các pháp tức là tướng không cố định của các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Tướng không cố định ấy chẳng sanh chẳng diệt, chẳng nhơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt. Vì sao? Vì là không cố định. Nếu nói sanh tức là cố định mất rồi, nếu nói diệt tức là cố định mất rồi; nếu sanh thì đâu có diệt, nếu diệt làm sao có sanh? Cho nên nói tướng không cố định không phải sanh, không phải diệt, là như vậy. Nó không phải nhơ, không phải sạch, vì nếu là nhơ tức không bao giờ đổi thành sạch được , nếu là sạch tức không bao giờ biến thành nhơ được. Nên nói tướng không cố định không phải nhơ, không phải sạch. Cũng như vậy, tướng không cố định của các pháp không phải thêm, không phải bớt.
Nói tóm lại, tướng không cố định của các pháp không phải sanh, không phải diệt, không phải nhơ, không phải sạch, không phải tăng, không phải giảm. Tướng không cố định ấy không phải tất cả những tướng đối đãi. Vì sao? Vì nếu nó là cái này hay là cái kia tức là nó cố định mất rồi. Vì tướng không cố định, nên sanh có thể biến thành diệt, nhơ biến thành sạch, tăng biến thành giảm, hoặc diệt biến thành sanh v.v. Tướng của các pháp tùy duyên đổi thay nên không cố định.Vì tùy duyên đổi thay nên không thể xác nhận nó là cái gì được. Tỉ dụ chúng ta có một ly nước đang trong sạch, nếu đem bỏ đất vào thì ly nước biến thành nhơ đục mất rồi. Như vậy ly nước không cố định phải là sạch hay là nhơ mà tùy duyên, tức là từ sạch do duyên đổi, biến thành nhơ. Nếu là cố định, khi sạch phải sạch mãi không nhơ, khi nhơ phải nhơ mãi không sạch, mà thật ra nó tùy duyên thay đổi làm sao gọi là cố định. Đó là ý nghĩa tướng không cố định của các pháp, nó không phải là cái gì hết vì nó là tướng tùy duyên.
Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới.
Cho nên trong tướng không không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp;không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới.
Ở đây Phật dạy tướng không cố định không phải là năm uẩn, không phải là sáu căn, không phải là sáu trần, không phải là mười tám giới. Nếu nó là cái nào tức là cố định rồi. Vì nó không phải là cái nào hết, nên nó mới tùy duyên không cố định. Nên nhớ chữ Vô ở đây là không phải: không phải sắc, không phải thọ,� tưởng, hành,thức v.v. vì căn cứ trên tướng không cố định mà nói như vậy.
Khi chúng ta chấp nặng sắc thân, đức Phật dùng tứ đại để phá chấp; khi chấp nặng phần tâm lý, đức Phật dùng ngũ uẩn để phá chấp. Khi chúng ta chấp về căn thân và trần cảnh, đức Phật dùng thập nhị xứ để phá chấp; khi chấp căn, trần và thức, đức Phật dùng thập bát giới để phá, cho nên nói không phải nhãn giới cho đến không phải ý thức giới. Nói tóm lại, trong cái không cố định không phải là sáu căn, không phải là mười hai xứ, không phải là mười tám giới, nghĩa là cái không cố định không phải là tất cả pháp thế gian.
Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo, vô trí diệc vô đắc.
Không có vô minh cũng không có hết vô minh, cho đến không có già chết cũng không có hết già chết; không có khổ, tập, diệt, đạo; không có trí tuệ cũng không có chớng đắc.
Đây là chỉ pháp xuất thế gian. Thập nhị nhân duyên thuộc về sơ kỳ Phật giáo, bắt đầu là vô minh, hành, thức, danh-sắc v.v. cho đến lão tử, đó là chiều lưu chuyển. Vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt . cho đến lão tử diệt, đó là chiều hoàn diệt. Như vậy, cái không cố định, không phải là mười hai nhân duyên trong chiều lưu chuyển, cũng không phải mười hai nhân duyên trong chiều hoàn diệt.
Không phải khổ, tập, diệt, đạo.
Tức là không phải pháp Tứ đế, nghĩa là cái không cố định không phải khổ đế, không phải tập đế, không phải diệt đế, không phải đạo đế. Pháp Tứ đế thuộc về sơ kỳ Phật giáo, là bốn pháp chân thật không dời đổi, tức là cố định. Nhưng ở đây nói không phải khổ tập diệt đạo là để phá cái chấp cố định của Tiểu thừa.
Tiểu thừa đối với giáo pháp Phật nói cho là chân lý, nên chấp chặt đó là thật. Nhưng ở đây phá luôn cái chấp Mười hai nhân duyên và Tứ đế. Vì sao? Vì Mười hai nhân duyên và Tứ đế là tướng không thật, đổi dời và không cố định.
Không phải trí, cũng không phải đắc.Đây là nói đến quan niệm Bồ-tát. Thường thường Bồ-tát dùng Sáu ba-la-mật để độ chúng sanh, nhưng trong Sáu ba-la-mật, trí ba-la-mật là căn bản. Nếu Bồ-tát dùng sáu ba-la-mật độ chúng sanh, sẽ đắc quả Sơ địa đến Thập địa Bồ-tát, tức là có trí có đắc. Nhưng sự thật ở đây nói không trí cũng không đắc, vì không có sở đắc, tức là không có cái để chớng được.
Sự thật của pháp thế gian, tại sao nói không cố định, không phải tất cả pháp thế gian? Không phải tất cả pháp thế gian, nghĩa là không phải tất cả pháp đối đãi của thế gian. Cái không cố định đó, nó không phải là cái gì trong các pháp đối đãi thế gian, bởi vì nếu nó là cái gì thì thành cố định cái đó rồi, cho nên nói cái không cố định không phải tất cả pháp thế gian, nhưng là tất cả pháp thế gian. Tất cả pháp đối đãi thế gian không khác với không cố định, mà chính là không cố định. Đây là ý nghĩa thâm trầm của tinh thần Bát-nhã.
Thường thường tất cả pháp thế gian, khi lập ra cái gì người ta đều cố định cái ấy, xét cho kỹ có pháp thế gian nào mà chúng ta không chấp là thật đâu? Khi nói phải chúng ta chấp phải là thật, khi nói quấy chúng ta chấp quấy là thật, nói tốt xấu dài ngắn đều chấp là thật, nói cái gì đều chấp cái đó là thật. Nhưng thử hỏi tất cả cái ấy có thật không? Có cố định không? Nếu nói phải, có cố định là phải chăng? Nói quấy, có cố định là quấy chăng?
Ở thế gian khi người ta nói như thế này là phải, thì tất cả người nghe theo nhận đó là phải và cho cái phải đó là cố định. Nhưng người khác lại nói như thế kia là phải, thì sao? Tức nhiên cái phải quấy chỉ là cái bày ra đấy thôi. Cái bày ra đó của ai? Tức nhiên là của những người lớn có uy quyền, rồi người sau bắt chước, chấp đó là phải, là cố định. Tỉ dụ hồi xưa các cụ nho nói người nữ là "Khuê môn bất xuất", cho đó là phải. Lúc ấy mọi người đều thấy như thế là phải. Nhưng ngày nay người nữ ngang quyền với người nam, có quyền ra ứng cử. Như vậy quyền bình đẳng đó là phải hay là quấy? Nếu hiện nay là phải, thì cái phải ngày xưa với cái phải ngày nay còn là một được không? Có khác nhau không? Nếu ngày xưa là phải, thì hiện nay đâu phải. Nếu ngày nay là phải thì ngày xưa hết phải. Như vậy ai phải? Cái nào phải?
Qua tỉ dụ trên, chúng ta thấy cái phải không cố định, tùy theo hoàn cảnh, tùy theo trường hợp, tùy theo sự sắp đặt của người trên trước có uy quyền. Thời đó phải sống như vậy mớ�i là phải, tức là cái phải của thời đó, của lúc đó mà thôi, chớ đâu phải là cái phải miên viễn muôn đời. Nếu chúng ta chấp cái đó là phải, mà có người nói khác đi tức nhiên ta phản đối lại, do đó sanh ra bao nhiêu tranh cãi phiền phức.
Xét kỹ lại tất cả cái phải đều không cố định, đã không cố định thì đâu có thật. Phải đã như vậy, thì quấy cũng như vậy. Giả sử có những việc ngày xưa cho là quấy, ngày nay trở thành phải, cũng có những việc ngày xưa cho là phải, ngày nay trở thành quấy. Mỗi thời mỗi lúc đều mỗi khác, cho nên phải quấy đều không cố định, nếu chúng ta chấp sự việc là cố định, tức nhiên là sai lầm, là không đúng sự thật.
Thiện ác có cố định được không?
Thường thường chúng ta hay nói làm việc này là thiện, làm việc kia là ác. Nhưng, tỉ dụ vào một buổi chiều ngồi trên thiền thất, tôi thấy một con kỳ nhông đang bò trên thân cây tràm. Bỗng từ xa bay nhanh lại một con chim bìm bịp chực chụp mổ kỳ nhông, chú kỳ nhông hoảng sợ chạy loanh quanh thân cây, bìm bịp cũng bay loanh quanh đuổi theo. Đứng trước cảnh đó, tôi phải làm sao? Tôi ra đuổi con bìm bịp để cứu con kỳ nhông, việc làm đó là thiện hay ác? Thấy qua dường như là thiện, cứu được sanh mạng con vật bé nhỏ, đuổi được con vật lớn hiếp đáp, đó là việc thiện chớ gì? Nhưng xét kỹ lại, quí vị thấy việc thiện đó đã thật là thiện hay chưa? Đứng về bên con kỳ nhông đây là việc thiện. Nhưng đứng về bên con bìm bịp thì thế nào? Buổi chiều đang đói, chim bìm bịp đi kiếm ăn, gặp được miếng mồi, sắp mổ ăn, mà bị người ngăn lại, làm sao khỏi sanh tức giận. Khiến kẻ khác tức giận đó là việc ác chớ gì? Như vậy việc đuổi chim bìm bịp chỉ thiện đối với con kỳ nhông mà ác đối với chim bìm bịp, thiện ác có cố định không? Xét xa hơn nữa, chẳng những ác với chim bìm bịp mà còn ác với con mồi khác nữa, vì chim bìm bịp đâu chịu nhịn đói, tức nhiên phải kiếm một con mồi khác để ăn. Và con mồi này là nạn nhân của tôi vì nó đã thế mạng con kỳ nhông, nếu nó biết việc này tức nhiên nó sẽ oán thù tôi luôn!
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy phải định thiện ác như thế nào? Thiện ác có cố định chăng? Một việc làm mới nhìn dường như là thiện, nhưng nhìn qua một khía cạnh khác lại là ác, chính đó là trong đối đãi không cố định, nghĩ làm việc thiện mà việc ác đã ở bên cạnh rồi. Thiện ác không cố định mà chấp là cố định, là chúng ta đã sai lầm. Tuy nhiên trong đối đãi, làm việc gì lợi mình lợi người là thiện, hoặc hại mình mà lợi nhiều người là thiện, còn làm việc gì lợi mình hại người là ác.
Nói lại tỉ dụ ly nước khi nãy, nó có cố định là nhơ hay sạch chăng? Một ly nước đang trong sạch, bỏ đất vào thành nhơ mất, đâu có cố định. Ly nước thành nhơ ấy, để lóng lại, lọc qua ly khác thì trở thành trong sạch. Ly nước luôn luôn đổi thay tùy duyên không cố định, nếu chấp vào một cái gì cố định là chúng ta sai lầm.
Đến tỉ dụ sự dài ngắn, một cây dài một thước để gần cây năm tấc, thì cây một thước là dài, cây năm tấc là ngắn. Khi cây một thước để gần cây hai thước thì cây một thước là ngắn, cây hai thước là dài. Như vậy chúng ta thấy tùy duyên mà cây một thước biến thành dài ngắn trong đối đãi, chớ không cố định.
Sự tốt xấu của sự vật cũng như vậy. Một món vật trung bình để gần một vật tốt thì trở thành xấu, nếu để gần một vật xấu hơn thì trở thành tốt. Cái tốt biến thành xấu hay cái xấu biến thành tốt là tùy duyên thay đổi, không có cái xấu tốt cố định, nếu chấp vào sự vật cố định tức là sai lầm.
Cũng như vậy, tất cả các pháp thế gian đều là đối đãi không cố định, nếu thấy các pháp không cố định là thấy đúng như thật, nếu thấy các pháp cố định là thấy sai lầm, tức là khổ vậy.
Học kinh Bát-nhã là phá chấp, nếu biết tất cả là không cố định thì còn chấp vào cái gì? Cho nên nói không phải tất cả, không có nghĩa là không có, mà ngay nơi đó thành tất cả. Bởi vì cái không cố định này không phải là cái gì hết, không phải tất cả mà tùy duyên thành lập tất cả.
Tinh thần Bát-nhã chỉ cho chúng ta thấy rõ tất cả các pháp đối đãi ở thế gian này là không có thật. Không thật là tướng tùy duyên không cố định, không cố định nên luôn luôn thay đổi theo duyên, theo duyên thay đổi nên không ở mãi một vị trí, không ở mãi một hình thức, không ở mãi một hoàn cảnh nào, luôn luôn tùy thời chuyển biến đổi thay.
Như vậy cái chuyển biến đổi thay tùy thời tùy duyên gọi là không cố định. Nhìn thấy rõ nhưvậy là thấy đúng như thật, gọi là thấy bằng trí tuệ Bát-nhã. Nếu thấy một bên là thấy bằng thiên chấp, tức là thấy lầm. Nếu thấy bằng thiên chấp là cái thấy của vô minh, không bao giờ thấy đạo. Nếu thấy đúng như thật là thấy bằng trí tuệ, là thấy đạo.
Câu chuyện thiền sau đây cho chúng ta thấy các pháp tùy duyên chuyển biến. Thiền sư Đạo Ngô và đệ tử là Tiệm Nguyên đi đám tang của một thí chủ. Khi ấy Tiệm Nguyên vỗ quan tài hỏi thầy: Đây là sanh hay tử? Ngài Đạo Ngô trả lời: Sanh không nói, tử cũng không nói. Tiệm Nguyên tức quá hỏi lại thầy: Tại sao không nói? Ngài Đạo Ngô chỉ trả lời: Không nói! Không nói!
Tiệm Nguyên càng tức, vì sao thầy không nói tử mà cũng không nói sanh. Sau khi xong đám ra về, đi ngang qua cánh đồng, Tiệm Nguyên lại thưa: Thầy phải nói cho con nghe, thầy không nói con sẽ đánh thầy. Vị thầy bảo: Đánh thì đánh, nhất định không nói. Ông học trò liền thoi vị thầy. Khi về đến chùa vị thầy bảo: Thôi chú hãy cuốn gói đi đi, nếu Tri sự hay việc này chú sẽ không yên. Tiệm Nguyên đành phải ra đi. Sau khi rời thầy,Sư cất một cái am ở xa để tu, Sư cứ mãi băn khoăn vấn đề tại sao không phải sanh, không phải tử, vì sao sanh tử đều không nói? Cho đến một đêm nghe am ở gần bên tụng kinh Phổ Môn, đến câu: " Ưng dĩ Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di thân đắc độ giả, tức hiện Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di thân nhi vị thuyết pháp." Khi nghe đến đây Sư liền ngộ. Như vậy tại sao Tiệm Nguyên ngộ? Tại sao ngài Đạo Ngô không chịu nói sanh hay tử? Chúng ta quen sống trong đối đãi cho nên chấp cái gì cũng thật hoặc là sanh hoặc là tử. Nhưng theo tinh thần Bát-nhã thì sanh tử không cố định; nếu là sanh thì không tử, nếu là tử thì không sanh. Nhưng trong vòng luân hồi sanh tử không dừng: tử rồi lại sanh, sanh rồi lại tử, không cố định, nếu nói là sanh hay là tử là nói một bên. Cho nên vị thầy thà để học trò đánh mà không nói. Sau này ngài Viên Ngộ bình rằng: " Thật là ông thầy vì trò mà máu ra lênh láng". Thầy đã hy sinh tột độ để nhờ đức hy sinh đó người học trò mới ngộ. Nhưng Tiệm Nguyên đã ngộ cái gì? Khi nghe tụng: Nếu cần dùng thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di để độ, liền hiện thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di mà vì đó nói pháp. Như vậy là tùy duyên mà hiện chớ không có cái gìcố định cả. Đó là chỗ Tiệm Nguyên đã ngộ. Ngài đã thấy đạo.
Trong kinh Pháp Bảo Đàn, lời di chúc của Lục tổ cũng dạy như vậy. Lục tổ bảo: Nếu người hỏi tối thì lấy sáng đáp, hỏi có thì lấy không đáp. Ví dụhỏithế nào là tối, đáp không sáng.Hỏi thế nào là có, đáp chẳng phải không. Dạy cách đối đáp như vậy, Lục tổ muốn chỉ cho chúng ta thấy tối sáng là tướng đối đãi không thật, không thật là không cố định, là tướng tùy duyên. Nếu nói là tối là sáng, là cố định, tức nhiên khiến người ta chấp vậy. Thà nói không phải tối, không phải sáng để người nghe thầm nhận tối và sáng là tướng đối đãi không cố định. Có và không cũng lại như vậy, sở dĩ có là đối với không mà nói, chớ đâu có thật. Biết các pháp không thậ�t là thấy đạo. Lục tổ đã ứng dụng triệt để tinh thần Bát-nhã trong cách đối đáp về các tướng đối đãi tùy duyên.
Trong nhà Thiền, khi được hỏi những gì còn chấp một bên, các thiền sư thường đưa hai ngón tay lên để chỉ rằng người hỏi còn kẹt ở hai bên, tức chưa thấy đạo. Dùng trí tuệ Bát-nhã thấy các pháp là tướng tùy duyên không cố định, đó là cửa vào nhà thiền, là cửa không, tức là không cố định vậy. Các pháp biến chuyển tùy duyên, vật này biến thành vật kia thấy đúng như vậy gọi là trí tuệ Bát-nhã thấy đúng như thật, và đó cũng hợp với tinh thần khoa học hiện nay.
Pháp thế gian không cố định, còn pháp xuất thế có cố định không? Pháp Phật nói như những thứ thuốc để trị bệnh cho chúng sanh, chúng sanh có những bệnh gì đức Phật lập ra những thứ thuốc ấy, vì vậy thuốc và bệnh là hai cái đối đãi nhau thì làm sao thật được? Nếu cố chấp là thật tức là cố định, là sai lầm mất rồi. Cho nên nói không phải vô minh. cho đến không phải hết lão tử là để phá chấp của Tiểu thừa cho Tứ đế và Thập nhị nhân duyên là thật pháp. Chẳng qua vì chúng sanh có những bệnh nên đức Phậtphải lập những phương thuốc để trị, nếu bệnh hết rồi thì thuốc cũng phải bỏ. Vì vậy pháp Tứ đế và Thập nhị nhân duyên đức Phật tạm lập ra để trị bệnh cho chúng sanh, nếu chúng ta chấp cho là thật pháp thì sai lầm.
Trí và đắc của Bồ-tát cũng không thật. Thật ra trên thế gian này không có cái sở đắc. Nếu có cái sở đắc là có cái bị được, tất phải có cái hay được; hay được và bị được là đối đãi nhau, năng và sở đối đãi nhau thì làm sao thật được. Cho nên nói không trí cũng không đắc để phá luôn cái chấp trí đắc của Bồ-tát.
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề-tát-đỏa y Bát-nhã ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại. Vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu kính Niết-bàn. Tam thế chư Phật y Bát-nhã ba-la-mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề .
Vì không có chỗ được, nên Bồ-tát y theo Bát-nhãba-la-mật-đa, tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo mộng tưởng, đạt đến cứu kính Niết-bàn. Chư Phật trong ba đời cũng nương Bát-nhã ba-la-mật-đa, được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Niết-bàn là vô sanh, tức là không sanh không diệt. Chúng sanh vì bị các thứ điên đảo và mộng tưởng, tức là những cái nhìn trái với sự thật, và những cái tưởng mơ màng không đúng lẽ thật, cho bản thân mình về tâm lý cũng như sinh lý là thường nhất và có chủ tể. Thấy như vậy là điên đảo, sai lầm không sáng suốt. Vì không sở đắc, nên Bồ-tát nương trí tuệ cứu kính xa lìa được các điên đảo mộng tưởng. Nhờ trí tuệ cứu kính ấy, các Ngài hoàn toàn thoát ly sanh tử nên nói là cứu kính Niết-bàn.
Chư Phật trong ba đời cũng nương Bát-nhã ba-la-mật-đa, được đạo quả Vô thượng Chánh đẳngChánh giác. Tức là thành Phật.
Vì không sở đắc, Phật nhân trí tuệ Bát-nhã mà được thành Phật. Vì không sở đắc, Bồ-tát nhân trí tuệ Bát-nhã mà xa lìa tất cả sai lầm được an ổn Niết-bàn. Chính là vô đắc mà đắc, đây là tinh thần Bát-nhã. Như trong kinh Kim Cang, Phật nói: ".Do thật không có pháp được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nên đức Phật Nhiên Đăng mới thọ ký cho ta rằng: Ở đời sau, ông sẽ được thành Phật hiệu Thích-ca Mâu-ni".
Chúng ta tu theo Phật phải đi đường nào để được Niết-bàn, để xa lìa điên đảo mộng tưởng, để thành Phật? Tức là phải dùng trí tuệ Bát-nhã, nên ở đây nói:
Cố tri Bát-nhã ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư.
Nên biết, Bát-nhã ba-la-mật-đa là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, hay trừ được hết thảy khổ, chân thật không dối.
Vì sao trí tuệ Bát-nhã lại có diệu dụng như là đại thần chú, đại minh chú, vô thượng chú, vô đẳng đẳng chú? Vì ngày xưa ở Ấn Độ, những chú này thường được dùng để trừ hết các khổ của chúng sanh. Cũng như vậy, trí tuệ Bát-nhã có đủ công dụng như những thần chú ấy, chân thật không dối, đó là diệu dụng của Bát-nhã.
Cố thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa chú tức thuyết chú viết: Yết-đế, yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, bồ-đề tát-bà-ha.
Vì vậy nói chú Bát-nhã ba-la-mật-đa, liền nói chú rằng: Yết-đế, yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, bồ-đề tát-bà-ha.
Vì sao đã nói trí tuệ Bát-nhã là đại thần chú, là đại minh chú. có diệu dụng trừ tất cả khổ, chân thật không dối, lại còn nói thêm câu chú Yết-đế, yết-đế. chi cho thừa.
Cách kết thúc bài Bát-nhã Tâm kinh này là một nghi vấn cho chúng ta. Có những nhà khảo cứu giải rằng: Trong thời trung kỳ Phật giáo (thời kỳ Bát-nhã), Mật tông đã chen vào trong giáo tức là trong kinh điển cho nên rốt sau bài Bát-nhã Tâm kinh có một câu chú để kết thúc.
Nhưng với cái nhìn của Thiền sư thì không phải như vậy. Thiền sư thấy câu chú ở phần kết thúc là đúng nghĩa Tâm kinh. Vì sao? Chúng tôi xin trích dẫn câu nói của Thiền sư Duy Tín: "Trước khi gặp thiện tri thức, tôi thấy núi sông là núi sông. Sau khi gặp thiện tri thức chỉ dạy, tôi thấy núi sông không phải là núi sông. Sau ba mươi năm, tôi thấy núi sông là núi sông". Chúng tôi sẽ lần lượt giải thích để quí vị nhận rõ:
1- Trước khi gặp thiện tri thức, thấy núi sông là núi sông: Khi chưa học Bát-nhã, chúng ta thấy núi sông là núi sông, vì chúng ta thấy tất cả pháp thế gian đều là thật. Núi thật là núi, sông thật là sông. Pháp nào cũng thật, pháp nào cũng cố định cả.
2- Khi gặp thiện tri thức chỉ dạy, thấy núi sông không phải là núi sông: Khi học Bát-nhã rồi, chúng ta thấy tất cả pháp tùy duyên, tất cả pháp không cố định, cho nên núi không phải là núi, sông không phải là sông. Ví dụ như vì một nguyên do nào, quả đất chúng ta đang ở bỗng rung rinh sụp đổ, núi cao có thể biến thành biển cả, sông ngòi lại hóa thành đồi nổng v.v... Vì vậy các pháp đều tùy duyên, không cố định, nên núi sông không phải là núi sông, tức là thấy đúng trí tuệ Bát-nhã.
3- Sau ba mươi năm, thấy núi sông là núi sông: Ba mươi năm hành thâm Bát-nhã rồi, mới thấy núi sông là núi sông. Nhận thấy núi sông là núi sông ở đây, có giống với nhận thấy núi sông là núi sông thuở trước, khi chưa gặp thiện hữu tri thức không? Chắc hẳn là không! Khi xưa thấy núi sông là thật, đến khi dùng trí tuệ Bát-nhã quán chiếu, biết núi sông là tướng tùy duyên không cố định. Khi biết các pháp hư dối, tùy duyên nên tâm không còn chấp một pháp nào, tức không còn dính mắc vào một pháp nào cả, gọi là tâm vô quái ngại, được cứu kính Niết-bàn, đó là đến chỗ như như. Tâm như như rồi, thấy núi là núi, sông là sông, không khởi phân biệt, không còn dính mắc. Thấy núi là núi, sông là sông là cái thấy của Thiền sư, là sống được với bản tâm thanh tịnh của mình tức là tâm kinh vậy. Kết thúc bằng tâm kinh, tức là kinh này nói thẳng vào tâm, là chỗ không có ý niệm, không khởi phân biệt: núi là núi, sông là sông.
Chúng tôi xin dẫn thêm bài kệ của Thiền sư Trì Bát đời Lý, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi. Khi sắp tịch Ngài nói kệ:
Hữu tử tức hữu sanh
Hữu sanhtức hữu tử
Tử vi thế sở bi
Sanh vi thế sở hỉ
Bi hỉ lưỡng vô cùng
Hốt nhiên thành bỉ thử
Ư chư sanh tử bất quan hoài
Án tố rô tố rô tất rị.
Dịch:
Có tử tức có sanh
Có sanh tức có tử
Tử là người đời buồn
Sanh là người đời vui
Buồn vui hai không cùng
Bỗng nhiên thành bỉ thử
Đối với sanh tử không bận lòng
Án tố rô tố rô tất rị.
Có tử tức có sanh, có sanh tức có tử. Tử là người đời buồn, sanh là người đời vui. Vì vậy để kỷ niệm ngày sanh,người ta gọi là ăn mừng sinh nhật, còn nhớ tưởng đến ngày mất, người ta buồn sợ nên gọi là ngày kỵ cơm. Vui buồn, hai cái không cùng tột, bỗng nhiên thành ra có kia, có đây, trong vòng đối đãi. Đối với sanh tử không bận lòng, tức không còn thấy hai bên, nghĩa là không còn cố chấp hai bên nữa. Không còn cố chấp thật sanh, không còn cố chấp thật tử, thì như thế nào? Án tố rô tố rô tất rị! Ý nghĩa câu thần chú này là gì? Tức là khi người ta không còn chấp hai bên thì tâm hết dính mắc. Tâm hết dính mắc tức đến chỗ như như. Đọc câu chú ấy lên mà không dấy niệm phân biệt, đó là như như. Như vậy, khi kết thúc bằng mấy câu thần chú là để nói dùng trí tuệ Bát-nhã đến chỗ cứu kính rồi, thì tâm thể như như, đó tức là Tâm kinh. Các Thiền sư thời xưa hay dùng câu thần chú để kết thúc, như Quốc sư Tông Cảnh đã dùng "Án tố rô tố rô tất rị" để kết thúc bài tán ngài Tuệ Trung Thượng sĩ.
BÁT NHÃ TÂM KINH GIẢNG GIẢI
Hoà Thượng Thích Thanh Từ
Thiền viện Thường Chiếu
III - KẾT THÚC
Bát-nhã chia làm ba phần: Văn tự Bát-nhã, Quán chiếu Bát-nhã, Thật tướng Bát-nhã. Văn tự là chữ nghĩa để chúng ta đọc tụng, hiểu nghĩa. Quán chiếu là xem xét soi thấu. Thật tướng là chỗ chân thật Niết-bàn. Văn tự Bát-nhã ví như con thuyền, quán chiếu Bát-nhã ví như ra công chèo bơi, thật tướng Bát-nhã ví như bờ bên kia. Người muốn qua bờ bên kia, khi xuống thuyền rồi hài lòng ở đó thì không bao giờ toại nguyện, cần phải chèo bơi mới mong tới bờ kia, đến bờ rồi chúng ta mới tự tại đạt được sở nguyện của mình. Vì thế kinh này đặt nặng ở hai chữ chiếu kiến, tức là quán chiếu Bát-nhã.
Trong bài Bát-nhã Tâm kinh, nếu chúng ta ứng dụng triệt để thì con đường tu hành đã sẵn đầy đủ trong đó chớ không đâu xa. Nếu chúng ta hằng dùng trí tuệ Bát-nhã soi mãi, thấy rõ ràng tất cả thân cảnh đều là duyên hợp không có tự tánh, tức là không cố định. Bởi tất cả pháp đều là tùy duyên biến đổi không cố định, thử hỏi chúng ta nhằm vào đâu mà chấp? Nếu chấp là chấp vào cái gì cố định. Bây giờ không cố định là phải, không cố định là quấy, không cố định là hơn, không cố định là thua, tất cả đều không cố định thì thử hỏi chấp vào cái gì? Phá hết các chấp rồi là hết khổ, hết khổ thì tâm không còn bị ngăn, bị chướng, dứt hết các điên đảo mộng tưởng, được hoàn toàn không sanh không diệt. Đây tức là Tâm kinh. Tâm kinh là con đường chư Bồ-tát đã đi, chư Phật cũng từ đó mà chứng đạo. Ngày nay chúng ta tu, đâu có lối nào khác hơn, cho nên các thời kinh đều dùng bài Bát-nhã Tâm kinh để kết thúc.
Thế mà có lắm người hiện nay không nhận thấy Bát-nhã là trí tuệ phá các chấp mê lầm của chúng sanh, mà cho bài Bát-nhã là để bổ túc những thiếu sót trong bài tụng ở trước, đó là một điều hết sức sai lầm. Ông cha quá thông minh, đến con cháu quá dốt nát, không hiểu được ý người xưa, nên nói lệch lạc ngược lại với ông cha của mình.
Người học đạo nếu thật tình muốn tiến tu để thoát ly sanh tử, thì không ai mà không ứng dụng trí tuệ Bát-nhã. Chính Lục tổ ngộ cũng từ kinh Kim Cang Bát-nhã, đến khi dạy Ngài cũng lấy phẩm Bát-nhã làm quan trọng; và đến giờ phó chúc Ngài cũng dùng tinh thần Bát-nhã để nhắc nhở đồ đệ. Cửa Thiền là cửa không. Không đây là không cố định. Dùng trí tuệ Bát-nhã thấy các pháp không cố định là thấy cửa vào nhà Thiền.
Chúng tôi xin nhắc lại một lần nữa việc ứng dụng tu hành: Hằng dùng trí tuệ Bát-nhã quán chiếu thân ngũ uẩn là tướng duyên hợp không thật, trần cảnh cũng là tướng duyên hợp không thật, hằng nhận thấy như vậy tức nhiên chúng ta bớt chấp thật. Khi biết các pháp là không thật, thì vọng tưởng sẽ giảm dần và chúng ta mới buông bỏ vọng tưởng dễ dàng hơn. Thân tứ đại không thật, tâm vọng tưởng không thật thì dù ai có khen có chê, chúng ta cũng chẳng bận lòng, phiền não chấp trước càng ngày càng nhẹ bớt đi. Dùng trí tuệ Bát-nhã ứng dụng vào việc tu hành thì chúng ta tu sẽ được an ổn nhẹ nhàng và thảnh thơi.
Biết các pháp là tướng tùy duyên không cố định thì nói sao cũng tốt, không có gì quan trọng. Người đời nói là phải ta cũng gật đầu, người đời nói quấy ta cũng gật đầu, vì tùy theo thời gian, hoàn cảnh mà người ở thế gian cho là phải hay quấy. Nhưng trên phương diện tu hành, chúng ta biết các pháp là không thật thì buông xả dễ dàng không chấp trước, việc phải quấy là tướng đối đãi tùy duyên, có gì mà phải bận lòng! Nói thế, không có nghĩa chúng ta là kẻ ba phải, vì ba phải là kẻ ngu si nói gì cũng gật, còn chúng ta sống bằng trí tuệ Bát-nhã thấy rõ lẽ thật của cuộc đời nên không cố chấp. Chấp là ngu si đau khổ, hết chấp là giải thoát Niết-bàn.
💠 BÁT NHÃ TÂM KINH THIỀN GIẢI (TG: Đương Đạo)
BÁT NHÃ TÂM KINH THIỀN GIẢI
Tác giả: ĐƯƠNG ĐẠO
Nhà xuất bản Văn Hoá Sài Gòn 2010
DẪN NHẬP
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa. Bởi vì không những kinh điển của hệ thống nghiên cứu về Tánh Không chiếm khối lượng nhiều nhất trong Đại thừa, mà từ Tánh Không (sunyata) đã lưu xuất ra hầu hết các học phái tu chứng của đạo Phật, như Thiền tông, Không Luận tông của Ngài Long Thọ, Thiên Thai tông và tiềm tàng trong Duy Thức tông, Mật tông, Hoa Nghiêm tông, Pháp Hoa tông...
Kinh Đại Bát-nhã nói: "Y theo Bát-nhã này, người nào muốn thành Tu Đà Hoàn sẽ đắc quả Tu Đà Hoàn, muốn thành A-la-hán sẽ đắc quả A-la-hán, muốn thành Bích Chi Phật sẽ thành Bích Chi Phật, muốn thành Bồ-tát sẽ thành Bồ-tát, nhẫn đến muốn thành Phật sẽ thành Phật". Tất cả đều nhờ Bát-nhã. Như thế Bát-nhã bao gồm Đại thừa lẫn Tiểu thừa, tùy theo người sử dụng.
Bộ kinh Đại Bát-nhã gốm sáu trăm quyển, có 125.000 bài tụng do ngài Huyền Trang dịch. Bộ này được cô đọng thành Bát- nhã Tâm Kinh gồm 260 chữ, nguyên văn bằng chữ Sanskrit, được lưu hành rộng rãi ở Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam... Như thế, đủ rõ Bát-nhã Tâm Kinh là cốt tủy của hệ thống Bát-nhã Không tuệ học, mà chúng ta ai cũng thuộc lòng. Và ai đến với đạo Phật, như một con đường rộng lớn nhất để giải thoát, chứng thực được thực tại vi diệu nhất là Niết-bàn Tự Tâm, đều phải, không hoàn toàn thì cũng một phần, đi trên con đường Bát-nhã vì Bát-nhã được kinh gọi là Mẹ của chư Phật.
Vậy thì Trí Huệ Bát-nhã là gì? Tâm Kinh được truyền thuyết để hành giả đạt đến cái gì? Trí Huệ Bát-nhã là trí huệ thấu biết Tánh Không và đưa hành giả đạt đến Tánh Không. Tánh Không là gì mà đạt đến nó tức là thành tựu được Phật quả, đạt đến mục đích cuối cùng của Đạo Phật? Có được một ý niệm về Không, một hiểu biết ở trên bình diện ý thức, dù ý thức được đạo Phật xem là vọng thức, chúng ta mới có thể đi vào Bát- nhã Tâm Kinh.
Không có ba ý nghĩa:
1 -- Ý nghĩa thế đế. Không là không có tự tánh, rỗng không. Đó là ý nghĩa của Không trong câu "soi thấy năm uẩn là Không". Tiếng Phạn là asbhava-sunya, tức là năm uẩn rỗng không, không có tự tánh.
Để cho dễ hiểu, chúng ta hãy xem xét sự vật trên bình diện ý thức, nghĩa là những gì ý thức có thể hiểu được. Theo khoa học hiện đại về vật lý hạt nhân, phần tử căn bản tạo nên vật thể là nguyên tử. Nguyên tử gồm một nhân, xoay quanh nhân là những âm điện tử. Các electron này thường có tốc độ khoảng nửa tốc độ ảnh sáng. Như thế cơ cấu của một nguyên tử không tồn tại nguyên dạng trong một phần triệu giây. Nói theo người xưa là nguyên tử không có tự tánh vì không giữ được cơ cấu của mình trong một sát-na.
Kim loại vốn rắn, dưới ảnh hưởng của nhiệt biến thành thể lỏng. Kim loại không duy trì được tự tánh của nó nên kim loại là không có tự tánh Nói theo lối đạo Phật, tứ đại (đất nước, gió, lửa) đều có thể bị hủy diệt biến thái bởi nhau và hóa thành lẫn nhau. Các nguyên tố sanh ra vũ trụ đều không có tự tánh nên là Không.
Một ý nghĩa nữa mà ý thức có thể hiểu, Không nghĩa là trống rỗng. Cũng trong nguyên tử khoảng cách từ nhân ra đến âm điện tử là cực kỳ lớn, đến nỗi khối lượng vật chất (nhân + âm điện tử) so với khoảng không ở giữa chúng cũng giống như khối lượng các ngôi sao so với khoảng không vũ trụ chứa đựng chúng. Nếu bỏ đi khoảng không trong nguyên tử, thì toàn thể một con người chỉ còn lại phần vật chất đặc nhỏ hơn hạt cát. Một kính hiển vi điện tử nhìn một bức tường sẽ thấy là trống không, vì phần vật chất quá ít so với khoảng không chứa chúng. Vật chất mà ta thấy bằng mắt gần như trống rỗng, đó là một phần ý nghĩa của chữ Không. Không trong ý nghĩa thế đế là không có tự tánh và trống rỗng, một phần nào khoa học hiện đại có thể hiểu được.
2 . Ý nghĩa thế đế thứ hai: Không có nghĩa là giả, không thật, như huyễn ảo. Qua những thí dụ trên, ta thấy rằng sự vật ta nhìn bằng mắt thường thì khác với sự vật của khoa học. Ta cũng biết rằng con kiến chỉ biết có hai chiều, không biết chiều cao. Con chó cũng thấy được có hai màu trắng đen. Vào đầu thế kỷ, con người ý thức được chiều thứ tư của sự vật là chiều thời gian. Vậy thì, thực tại tùy theo mỗi loài, tùy theo ý thức hạn hẹp hay mở rộng mà thấy có khác nhau. Cái ta thấy chỉ là cái của ta. Cái ấy không đúng như thực tại trong tự thể của nó. Không nhìn đúng sự thật, không nhìn được thực tại như nó hiện là, mà nhìn ra một cái khác tùy theo ý thức mỗi loài. Cái khác đó đạo Phật gọi là giả hay sâu xa hơn, là như huyễn. Duy Thức tông nói mọi pháp đều có theo “thức”. Nghĩa là mọi vật đều theo “thức phần” của ta mà hiện ra với ta, cái hiện ra đó tùy theo thức, nên mọi cái hiện ra đều do thức. Vì theo thức riêng của mỗi loài chúng ta nên không thật, là giả, như huyễn.
3. Ý nghĩa chân đế. “Không” là thực tại, không sanh, không diệt, không dơ sạch, không tăng giảm, như Tâm Kinh tuyên thuyết. Thực tại đó siêu việt khỏi mọi ngôn ngữ, mọi ý niệm hoặc có hoặc không, ngoài mọi hình tướng nên dùng chữ “Không” để diễn tả nhưmột sự phủ định tất cả và vượt lên tất cả. Thực tại đó, trong Thiền tông được biểu thị bằng một vòng tròn trống không hàm chứa tất cả mọi sự, đó là thực tại tròn đầy gọi là Chân Không Diệu Hữu.
Lấy một ví dụ có ý nghĩa triết học, người xưa thường dùng là sóng và nước. “Không” ở đây là bản thể, đối với “sắc” là hiện tượng. Tâm Kinh nói sắc tức là Không, có nghĩa là hiện tượng sanh diệt là bản thể chân thường. Như sóng sanh diệt có bản thể là nước, là biển cả chân thường. Bản thể của sóng là nước như bản thể của hình sắc vật chất là Chân Không.
Như thế, trăm ngàn sóng đều đồng nhau trong bản chất là biển cả, cũng như trăm ngàn hình sắc đều cùng một bản chất là Chân Không bất diệt. Trăm ngàn thứ đồ vật bằng vàng đều có bản thể là vàng. Chúng ta không thấy được vạn vật cùng một thể tánh (thể tánh này siêu việt lên ý thức, ngoài mọi lý luận về có và không) vì chúng ta bị trói buộc trong ý thức nông cạn của mình. Muốn thấy được Tánh Không đó phải từ ý thức đi vào Trí Bát-nhã. Đó là quá trình tu chứng của đạo Phật.
Một cách cụ thể, khi có người hỏi hành giả tu Bát-nhã, cái bàn là gì? Hành giả đó sẽ trả lời cái bàn là Không. Và không những cái bàn, mà cỏ cây, hoa lá, núi sông, phàm thánh trời người, tất cả đều là Không, đều đồng một thể Chân Không. Điều đó cũng giống như tất cả mọi bóng sắc trong một tấm gương rộng lớn đến vô hạn, tuy sắc có vô số nhưng đồng một bản thể là gương. Tâm Kinh nói Không tức thị Sắc nghĩa là gương và bóng là một. Không có bóng nào ở ngoài gương và không có bóng nào không có bản chất là gương.
Đối với khoa học hiện đại, khi được hỏi bản thể của vật chất là gì, khoa học sẽ trả lời là những hạt cơ bản. Đối với đạo Phật, vượt quá ý thức để thấy và chứng bằng Trí Huệ, bản thể của vật chất còn vi diệu hơn cả những hạt cơ bản và những hạt cơ bản là một thứ vật chất nhỏ. Những hạt cơ bản không vi tế bằng khoảng không ở trong nguyên tử đó, mà theo kinh Lăng Nghiêm khoảng trống không vũ trụ còn được sanh ra bởi và ở trong Như Lai Tạng tức là trong Chân Không, thì cái thể tánh Không đó hoàn toàn không thể nghĩ bàn.
Kinh Duy-ma-cật phẩm Đệ Tử có nói: Pháp đồng pháp tánh". Mọi pháp cùng đồng một Pháp tánh. Pháp tánh ấy là Không. Không là Pháp tánh, là bản thể của tất cả mọi vật. Ngài Hiền Thủ, tổ Hoa Nghiêm tông, giảng Sư Tử Chương: Con sư tử bằng vàng, nên tất cả mọi sợi lông trên thân đểu bằng vàng. Cũng thế mọi hình tướng vật chất ta thấy được đều cùng một thể tánh, thể tánh đó là Không.
Không đó, kinh Lăng Nghiêm gọi là Không Như Lai Tạng. Hoa Nghiêm gọi là Pháp giới Tánh, Pháp Thân. Kinh Viên Giác gọi là Viên Giác, cái biết thường hằng viên mãn. Kinh Lăng Già gọi là Viên thành thật Trí hay Đại viên cảnh Trí.
Ngài Padmasambhava, vị khai sáng Phật giáo Tây Tạng trong cuốn Đại Giải Thoát, diễn tả cái Không đó là Nhất Tâm như sau: "Tâm thì không chỗ trụ, không dơ nhiễm, không sinh ra bởi vật gì, là Chân Không, chiếu soi, trống lặng, không phân hai, trong suốt, không thời gian, không trộn lẫn, không bị ngăn ngại, không màu sắc, không hình tướng để có thể nắm bắt, nhưng là nhất thể của vạn pháp, lại cũng không sinh ra bởi vạn pháp. Một vị bình đẳng siêu lên mọi phân biệt."
Lục Tổ Huệ Năng gọi là Tự Tánh: "Nơi con người, thân xác là thành, mắt tai mũi lưỡi là cửa, ngoài có năm giác quan là năm cửa, trong có cửa ý, tâm là đất, Tánh là Vua. Trên đất tâm này, có Giác Tánh Như Lai, phóng ra ánh sáng lớn, ngoài soi sáu cửa thanh tịnh, trong phá sáu nẻo luân hồi, Tự Tánh chiếu bên trong ba độc tham sân si diệt trừ, địa ngục và tội lỗi tiêu sạch. Trong ngoài sáng suốt chính là Tịnh Độ."
Thiền tông gọi Tánh Không này là Tâm, Chân Tâm, Phật Tánh, Tâm Không, Tâm Ấn... Mật tông gọi là Kim Cương giới, thế giới bản thể, đối lại với Thai Tạng giới là thế giới hiện tượng.
Ở trên là ba ý nghĩa của Tánh Không. Ba ý nghĩa đó có thể gọi là ba phương diện của cùng một thực tại. Ba phương diện này được Ngài Long Thọ nói trong Trung Luận:
"Các pháp nhân duyên sanh.
Tôi nói chính là Không.
Đó gọi là giả danh.
Cũng là nghĩa Trung Đạo. "
Nói theo ngài Thiên Thai Trí Giả, đó là ba phương diện Không, Giả, Trung của thực tại. Đối với ba phương diện ấy của thực tại Không, đạo Phật có ba pháp tu quyết định được giảng trong những kinh điển như Lăng Nghiêm và Viên Giác để đưa hành giả tương ưng với Thực Tại. Đó là Samatha, Chỉ hay Định để tương ưng với Không. Vipasyana, Quán hay Huệ để tương ưng với Giả. Dhyana hay Thiền, hay Chỉ Quán song tu để tương ưng với Chân Không Trung Đạo đệ nhất nghĩa đế. Đứng trong Triết học Đông phương, chia thực tại làm ba phương diện Thể, Tướng, Dụng thì Không là:
Thể: Không là Chân Không Trung Đạo đệ nhất nghĩa đế, ly tứ cú (vượt ra ngoài bốn ý niệm: có, không, vừa có vừa không, không có không không), tuyệt bách phi (vượt ra ngoài một trăm cái ‘chẳng phải là’).
Tướng : Không là trống rỗng, không tự tánh.
Dụng : Không là không thật có, như huyễn.
Tóm lại dầu gọi bằng tên gì, chúng ta cũng có một kết luận: Có một thể tánh chân thường, không sanh không diệt, không tăng không giảm, ngoài mọi ý niệm có không. Thể tánh đó là bản thể của mọi pháp và cũng là thể tánh của chúng ta. Nó là Phật tánh của chúng ta, cái vốn có từ xưa đến giờ ở nơi mỗi chúng ta. Chúng ta chỉ thoát khỏi khổ đau, ràng buộc, trôi lăn trong sanh tử luân hồi, ngày nào chúng ta là Nó. Còn là một làn sóng, còn bị trói chặt trong thân ngũ ấm, chừng đó còn bị đau khổ, trôi lăn. Khi nào làn sóng là một với đại dương không sanh không diệt, thường, lạc, chân, tịnh, vấn đề đau khổ và luân hồi sẽ chấm dứt. Thể tánh đó là lời hứa vĩnh cửu cho mọi con người chúng ta, những sinh vật khát khao vĩnh cửu chân thường, vì tất cả chúng ta đều sanh ra để chết. Nếu không có thể tánh Chân Không đó, sẽ không có đạo Phật, vì chẳng còn lời giải cho khổ đau, sanh tử và luân hồi, không còn nụ cười an nhiên của Đức Phật, không có sự tự chứng và giúp người khác chứng, không có một Đức Phật nào và một vị Bồ-tát nào.
Tánh Không đó là lời hứa vĩnh cửu cho mọi con người khát khao vĩnh cửu, thường, lạc, chân, tịnh, mà chính Đức Thích-ca đã hứa với mỗi một chúng ta, khi trao y bát cho Ngài Ca-diếp làm vị Tổ đầu tiên của đạo Phật: "Ta có Chánh pháp Nhãn Tạng Niết- bàn Diệu Tâm, thực tướng vô tướng, nay phó chúc cho ông."
Tánh Không đó, không phải do giảng thuyết mà đạt được, không do bàn luận mà đạt được không do học tập mà đạt được. Với đạo Phật, nghe (Văn) tư duy (Tư) chỉ để đi đến thực hành (Tu). Tánh Không đó chỉ đạt được do tu tập, do huân tập một cái nhìn khác với cái nhìn của giác quan thường nghiệm, luyện tập một lối suy nghĩ khác với ý thức thường nghiệm để chuyển thức thành Trí. Chuyển thức thành Trí là công phu tu hành của mọi môn phái đạo Phật. Con đường của Giác ngộ là đạo Phật, chỉ có qua sự tu tập. Không có công phu tu tập chúng ta sẽ không tiến được một bước quyết định nào trên con đường đó, không leo lên được một nấc thang nào trong năm mươi bốn địa vị dẫn đến quả vị Giác Ngộ. Bởi thế, khi diễn giải, chúng tôi chú trọng nhiều hơn về mặt thực hành…. « …
(Trích Bát Nhã Tâm Kinh – Thiền giải – Phần Dẫn Nhập)
💠 KINH ĐẠI BÁT NHÃ TOÁT YẾU (Pháp sư CƯU MA LA THẬP ; Lược Giải : Sa Môn Thích Thiện Hoa)
KINH ĐẠI BÁT NHÃ TOÁT YẾU
Ngài Tam tạng Pháp sư CƯU MA LA THẬP, dịch chữ Phạn ra chữ hán
Sa môn THÍCH THIỆN HOA dịch lại chữ Việt và lược giải
(Trích Phật Học Phổ Thông)
-o0o-
NGUYÊN VĂN
(bản dịch thứ nhất)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
Ngài gọi ông Xá Lợi Tử dạy rằng: "Này Xá Lợi Tử ! Năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) chẳng khác với "không" chẳng khác với năm uẩn; năm uẩn tức là "không", "không" tức là năm uẩn.
Này Xá Lợi Tử ! "Tướng không" (Bát Nhã) của các pháp đây, nó không sanh không diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt.
Bởi thế nên, trong "Tướng không" (Bát Nhã) này, không có năm uẩn là: sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không có Sáu căn là: nhãn ,nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; không có Sáu trần là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; không có Sáu thức là: nhãn thức, nhĩ thức, tũ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức;
Không có mười hai nhơn duyên; nghĩa là không có "vô minh" và cũng không có "hết vô minh"; cho đến không có "Lão tử" và cũng không có "hết Lão tử";
Không có Tứ đế là: khổ, tập, diệt, đạo; cũng không có "trí" tu chứng và đạo quả để chứng (dắc). Tóm lại, không có "đặng" cái gì cả.
Các vị Bồ Tát nhờ y theo Trí huệ Bát Nhã (Tướng không) mà xa lìa được cá mộng tưởng điên đảo, nên tâm không còn ngăn ngại, lo sợ và chứng được rốt ráo Niết bàn.
Các đức Phật quá khứ, hiện tại và vị lai cũng đều y theo Trí huệ Bát Nhã (Tướng không) mà đặng đạo Vô thượng Bồ Đề.
Vì Trí huệ Bát Nhã (Tướng không) có khả năng diệt trừ hết các khổ, chắc chắn như vậy, không hư dối, nên gọi là thần chú Bát Nhã Ba La Mật; cũng gị là "chú Đại thần, chú Đại minh, chú Vô thượng và chú Vô đẳng đẳng".
Ngài Quán tự tại Bồ Tát liền nói Thần chú Bát Nhã: "Yết đế yết đế, Ba la yết đế, Ba la tăng yết đế, Bồ Đề tát bà ha".
***
BÁT NHÃ TÂM KINH
Ngài Tam tạng Pháp sư CƯU MA LA THẬP, dịch chữ Phạn ra chữ hán
Sa môn THÍCH THIỆN HOA dịch lại chữ Việt và lược giải
NGUYÊN VĂN
(bản dịch thứ hai)
KINH ĐẠI BÁT NHÃ TOÁT YẾU
Sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thấy các pháp đều là Bát Nhã (không), nên không còn các khổ.
Ngài gọi ông Xá Lợi Tử dạy rằng: "này Xá Lợi Tử ! các pháp chẳng khác với Bát Nhã (không), Bát Nhã chẳng khác với các Pháp; các Pháp tức là Bát Nhã (không), Bát Nhã tức là các Pháp.
Này Xá Lợi Tử ! Bát Nhã (tướng không) là tánh của các Pháp. Nó không sanh không diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt.
Bởi thế nên trong Bát Nhã (không), không có các Pháp thế gian như: Năm uẩn (sác, thọ, tưởng, hành, thức), sáu căn (nhãn,nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý), sáu trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp), sáu thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thứ và ý thức).
Và trong Bát Nhã, cũng không có các Pháp xuất thế gian như: Tứ đế (khổ, tập, diệt, đạo), Mười hai nhơn duyên (không có vô minh và vô minh tận; không có Lão tử và Lão tử tận), không có "trí" tu chứng và đạo quả để chứng (dắc). Tóm lại, trong Bát Nhã không có cái gì cả.
Các vị Bồ Tát nhờ y theo Trí huệ Bát Nhã (không) mà xa lìa được các mộng tưởng điên đảo, nên tâm không còn ngăn ngại, lo sợ và chứng được đạo quả Niết bàn.
Các đức Phật quá khứ, hiện tại và vị lai, cũng đều y theo Trí huệ Bát Nhã (không) mà đặng đạo vô thượng Bồ Đề.
Vì Trí huệ Bát Nhã có khả năng diệt trừ hết các khổ, chắc chắn như vậy không hư dối, nên cũng gọi là Thần chú Bát Nhã, cũng gọi là chú Đại thần, chú Đại minh, chú Vô thượng và chú Vô đẳng đẳng".
Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, liền nói thần chú Bát Nhã:
"Yết đế yết đế, Ba la yết đế, Ba La Tăng Yết đế, Bồ Đề tát bà ha".
Khóa Thứ Mười Hai
KINH ĐẠI BÁT NHÃ TOÁT YẾU
Ngài Tam tạng Pháp sư CƯU MA LA THẬP, dịch chữ Phạn ra chữ hán
Sa môn THÍCH THIỆN HOA dịch lại chữ Việt và lược giải
LƯỢC GIẢI
Nguyên đề mục kinh nà có mười chữ:
"Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa tâm kinh"; gọi tắt là:Tâm kinh"
MA HA:Trung Hoa dịch âm chữ Phạn "Maha", dịch nghĩa là "Đại" (lớn), Đa (nhiều) và "thắng" (hơn).
BÁT NHÃ:Trung Hoa dịch âm chữ Phạn "Prajnà"; vì không có chữ dịch cho cân xứng, nên chỉ dịch nguyên âm (Bát Nhã).
Bát Nhã có nhiều nghĩa sâu xa, nhưng tóm lại có sáu nghĩa:
1. Viễn ly: Xa lìa các vô minh phiền não vọng chấp
2. Minh: Sáng, không mờ tối
3. Trí: Thông suốt
4. Huệ: Sáng tỏ
5. Trí huệ: Sáng tỏ thông suốt
6. thanh tịnh: Trong sạch không nhiễm ô.
Bát Nhã có nhiều nghĩa như vậy, nếu lấy một nghĩa thì không được đúng lắm, nẹ6n các dịch giả chỉ để nguyên âm chữ Phạn.
Tuy nhiên, trong sáu nghĩa trên đây, nếu đem so sánh và cân nhắc, thì có thể dùng tạm nghĩa "Trí huệ", vì nghĩa Trí huệ có phần rõ ràng vá xác đáng hơn hết.
Nhưng, cần phải chọn lọc thật kỹ, bỏ các loại Trí huệ sau đây, mới đúng với nghĩa của chữ "Bát Nhã".
1. Trí huệ thế gian: Trong thế gian, những người học rộng thấy xa, thông minh lanh lợi khôn khéo lịch duyệt, hay giỏi mọi phương diện, thiên hạ gọi là người "Trí huệ". Nhưng Trí huệ đó là Trí huệ của thể tục phàm phu, không phải là "Trí huệ Bát Nhã".
2. Trí huệ ngoại đạo: Chúng ngoại đạo tu thiền định lâu ngày cũng có Trí huệ (xem bài Thiền tôn trong Bộ Bản đồ tu Phật ) biết được việc quá khứ hiện tại và vị lai, thần thông biến hoá vô cùng, nhiều pháp kỳ lạ. Nhưng Trí huệ đó là tà Trí huệ, không phải "Trí huệ Bát Nhã".
3. Trí huệ Nhị thừa: Hàng Thinh văn và Duyên giác do tu pháp Tứ đế và Thập nhị nhơn duyên mà đặng đạo quả. Các vị nàyđã khỏi sanh tử luân hồi, thần thông tự tại và có Trí huệ biết được việc quá khứ hiện tại và vị lai.
Nhưng Trí huệ đó thuộc về Trí huệ Tiểu thừa, chỉ thấy về "ngã không chơn như" (thiên không), chớ chưa thấy được "pháp không chơn như", nên cũng không phải "Trí huệ Bát Nhã".
Trừ ba loại Trí huệ trên, duy có Trí huệ của Phật hay của Đại thừa Bồ Tát, mới phải là "Trí huệ Bát Nhã".
Công dụng của Trí huệ Bát Nhã, như mặt trời chiếu phá các mây mù vô minh vọng chấp (ngã, pháp). Bởi thế nên Trí huệ Bát Nhã chiếu soi các pháp, thì pháp nào cũng đều bỏ hình giả dối, mà hoàn lại tướng chơn thật. Tướng chơn thật của các pháp đã hiện, tức là chơn như hay chơn lý của vũ trụ hiện ra vậy.
Trí huệ Bát Nhã saün có trong mổi chúng sanh từ vô thỉ đến nay, không phải do tu mới có, hay nhờ các duyên bên ngoài luyện tập mà thành. Dù ở địa vị phàm phu, nó cũng không giảm, dù chứng quả thánh, nó cũng không tăng. Nó không bị các vô minh phiền não phá hoại, trái lại còn phá tiêu tất cả vô minh phiền não từ vô thỉ đến nay. Nó phá một cách dễ dàng và rốt ráo, như gió thổi mây bay, như mặt trời chiếu sương mù tan. Bởi thế nên gọi là "Bát Nhã Ba La Mật Đa" (Trí huệ rốt ráo).
Trí huệ Bát Nhã có công năng như chiếc thuyền, đưa chúng sanh từ bên này bờ mê muôi triền phược của phàm phu, đến bên kia bớ giác ngộ giải thoát của chư Phật, nên Cổ nhơn cũng gọi là "thuyền Bát Nhã".
Muốn giản biệt Trí huệ Bát Nhã, để khỏi lầm lộn với Trí huệ của phàm phu, ngoại đạo và Tiểu thừa, chúng tôi dịch nghĩa chữ "Bát Nhã" như sau:
1. Trí huệ Phật (Trí huệ của Phật tánh hay chơn tâm)
2. Trí huệ Bát Nhã (dùng cả chữ Phạn và chữ Hán)
3. Trí huệ rốt ráo (Bát Nhã Ba la mật)
Bát Nhã có ba loại:
a. Văn tự Bát Nhã: tức là "học Bát Nhã". Hành giả nhờ học văn tự nghĩa lý kinh Bát Nhã mới ngộ được Lý tánh Bát Nhã cũa mình.
b. Quán chiếu Bát Nhã: Tức là "tu Bát Nhã". Sau khi đã ngộ được Lý tánh Bát Nhã, hành giả phải tu tập; nghĩa là quán sát chiếu soi các pháp đều "không"
c. Thật tướng Bát Nhã: Tức là "Chứng Bát Nhã". Sau khi tu tập, đến lúc công viên quả mãn rồi, hành giả chứng được tướng chơn thật của Bát Nhã.
Tu chứng Bát Nhã có ba giai đoạn:
1. Gia hạnh Bát Nhã: Tăng gia công hạnh tu Bát Nhã. Nghĩa là sau khi hạ thủ công phu tu tập, hành giả phải tăng gia công hạnh, mới đặng Trí huệ Bát Nhã.
2. Căn bản Bát Nhã: Tức là thể tánh Bát Nhã, tuy saün có trong mỗi chúng sanh, nhưng phải nhờ có tu hành mới được hiển lộ.
3. Hậu đắc Bát Nhã: Tức là diệu dụng Bát Nhã, do hành giả sau khi chứng đặng "căn bản Bát Nhã" rồi mới được diệu dụng này.
***
BA LA MẬT ĐA: Trung Hoa dịch âm chữ Phạn "Paramita", có hai nghĩa:
1. Đáo bỉ ngạn: đến bờ bên kia. Trí huệ Bát Nhã có công năng đưa chúng sanh từ bờ mê muội triền phược của phàm phu bên này, qua đến bờ giác ngộ giải thoát của chư Phật bên kia, nên gọi là "Bát Nhã Ba La Mật Đa"
2. Cứu cánh viên mãn: hoàn toàn rốt ráo. Theo tục ngữ Ấn Độ, phàm làm việc gì khi đã hoàn toàn viên mãn, thì gọi là "Ba La Mật Đa". Trí huệ Bát Nhã là loại Trí huệ đã rốt ráo viên mãn, nên gọi là "Bát Nhã Ba La Mật Đa".
TÂM:Chữ "Tâm" có nhiều nghĩa:
1. Tâm: Quả tim, như "tâm can tỳ phế thận";
2. Tâm: Chứa nhóm và sanh khởi, như "tập khởi tâm";
3. Tâm: Chứa nhóm, như "Tập tích tâm";
4. Tâm: Sanh diệt không gián đoạn, như "đẳng vô gián tâm";
5. Tâm: Nhớ nghĩ lo lường, như "tư lương tâm";
6. Tâm: Rõ ràng phân biệt, như "minh liễu phân biệt tâm";
7. Vọng Tâm: Tâm hư vọng sanh diệt ;
8. Chơn Tâm: Tâm chơn thật, như "bản thể chơn tâm";
9. Tâm: Toát yếu hay tinh yếu, như chữ "trọng tâm".
Tóm lại, chữ "tâm" tuỳ ở trong đề mục kinh này, thì nên dùng nghĩa "tinh yế", "toát yếu" hay "trong tâm" mới là chính xác. Vì Phật nói kinh Đại Bát Nhã đến 600 quyển, trải qua thời gian 22 năm mới rồi (nhị thập nhị niên Bát Nhã đàm); kinh này (chỉ có 260 chữ) là trong tâm hoặc toát yếu hay tinh yếu của kinh Đại Bát Nhã, nên gọi là "Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa tâm kinh".
***
KINH: kinh điển hay giáo lý, do Phật hoặc Bồ Tát nói ra. Chữ "kinh" có nhiều nghĩa, nhưng tóm lại cóp ba nghĩa như sau:
1. Thường: Không thay đổi. Chơn lý của Phật không thay đổi, dù Phật quá khứ, hiện tại, vị lai cũng đều nói chơn lý như vậy.
2. Dường canh: Đường chỉ xuôi trong tấm vải. Nhờ sợi chỉ xuôi, xâu kết các sợi chỉ ngang, để làm thành một tấm vải. Còn kinh là sự tổng hợp ghi chép các lời nói của Phật hoặc Thánh hiền.
3. Hợp (khế): Kinh Phật hợp với "chơn lý của vũ trụ" và hợp với "căn cơ trình độ của chúng sanh". Cũng một bộ kinh, mà tuỳ theo trình độ của mỗi người jẻ hiểu cao, người hiểu thấp. Tuy sự hiểu ngộ cao thấp không đồng, nhưng y theo kinh tu hành, đều được khỏi khổ sanh tử luân hồi, không sót một người nào. Kinh Phật có những đặc điểm như vậy, nên gọi là "khế kinh".
Tóm lại, "Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa tâm kinh" là "Kinh toát yếu kinh Đại Bát Nhã".
Nói về danh, Tướng, Thể, Dụng của kinh này:
Danh: tên kinh này dùng pháp "Bát Nhã" làm tên
Tướng: Kinh này lấy "Đại thừa" làm giáo tướng.
Thể: Kinh này lấy "Thật tướng" làm thể
Dụng: Kinh này lấy "độ thoát khổ ách" làm dụng
Tôn chỉ: Kinh này lấy "quán chiếu" làm tôn chỉ
***
Tên của dịch giả: Ngài Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang.
TAM TẠNG PHÁP SƯ: Tam tạng là ba kho tàng; vì có công năng trùm chứa văn nghĩa của Phật pháp, nên gọi là "Tạng".
1. Kinh tạng chép những lời Phật dạy hay những lời của các vị Bồ Tát nói ra.
2. Luật tạng chép những giới và luật của 7 chúng (Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Sa Di, Sa Di Ni, Thức xoa và Ưu bà tắc, Ưu bà di)
3. Luận tạng chép những nghị luận chánh tà, phân biệt chơn vọng của các vị Bồ Tát và chư Tổ.
Thầy giảng Kinh thì gọi là "Pháp sư"
Thầy giảng Luật thì gọi là "Luật sư"
Thầy giảng Luận thì gọi là "Luận sư"
Ngài Huyền trang thông suốt cả ba tạng và giảng dạy cả Kinh, Luật, Luận nên gọi Ngài là "Tam Tạng Pháp sư" (vị Pháp sư thông suốt ba tạng).
HUYỀN TRANG: Ngài họ Trầøn tên Vĩ ở đất Yên sư, tỉnh Lạc Dương. Ngài rất thông minh, xuất gia khi 13 tuổi, học đủ kinh điển. Đến năm Trinh Quán thứ ba, Ngài phát tâm qua Ấn Độ học Phật pháp đén 15 năm, rất thông về "pháp tướng Duy thức học". Ngài học được 657 bộ kinh. Đến năm Trinh Quán thứ 19, Ngài về Trung Hoa. Vua Đường Thái Tôn rất mừng, thỉnh Ngài ở lại chùa Hoàng Phước dịch kinh. Ngài dịch được 75 bộ, cộng là 1335 quyển. Ngài hưởng thọ 75 tuổi. Vua Cao Tôn dựng tháp Ngài thao kiều Ấn Độ tại chủa Từ Ân, công đức của Ngài thật là vô tận. (xem bộ Huyền Trang do Võ đình Cường soạn, Hương Đạo xuất bản)
Kinh này có năm nhà dịch từ chữ Phạn ra chữ Trung Hoa, nhưng bản dịch của Ngài Huyền Trang truyền bá được thạnh hành hơn hết.
***
PHẦN DUYÊN KHỞI
CHÁNH VĂN
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã), nên không còn các khổ.
LƯỢC GIẢI
Đoạn thứ nhứt, nói: Bồ Tát dùng Trí huệ Bát Nhã, thấy các pháp đều không (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
Tất cả chúng sanh vì mê bản thể chơn tâm thanh tịnh của mình, nên vọng hiện ra có thế giới và chúng sanh.cũng như ngưới mê ngủ chiêm bao, nên thấy có các cảnh vật.
Chúng sanh chấp các cảnh vật đó là thật, nên khởi ra tham, sân, si tạo đủ các nghiệp, rồi sanh tử luân hồi chịu đủ kiểu khổ sở. Cũng như người dương chiêm bao, vì chấp cảnh vật trrong chiêm bao là thật, nên sanh ra vui buồn đủ chuyện.
Bồ Tát dùng Trí huệ Bát Nhã, thấy rõ các pháp (thế giới, chúng sanh) đều không, do vô minh vọng tưởng hiện ra, nên Bồ Tát không còn bị các khổ bởi vô minh vọng tưởng. Cũng như người đã thức giấc chiêm bao, thấy rõ cá cảnh vật trong chiêm bao đều không có, nên không cò bị khổ vui bởi cảnh chiêm bao.
Tóm lại, chúng sanh vì chấp năm uẩn thật có, nên mới chịu các hkhổ sở. Bồ Tát dùng Trí huệ Bát Nhã thấy năm uẩn đều không, nên không còn bị các khổ.
GIẢI DANH TỪ
QUÁN TỰ TẠI BỔ TÁT: NGÀI Huyền Trang Pháp sư dịch là "Quán Tự Tại Bồ Tát"; Cựu dịch: "Quán Thế Âm Bồ Tát"
Quán Tự Tại, có hai nghĩa: 1. Quán rõ các pháp đều do tâm biến hiện, nên chúng sanh được quả tự tại, 2. Quán biết căn cơ của chúng sanh, nên sự giáo hoá được tự tại.
BỔ TÁT: Trung Hoa dịch tắt chữ "Bồ Đề Tát Đoả". "Bồ Đề" dịch là "Giác"; "Tát đoả" dịch là "Hữu tình"; nghĩa là chúng hữu tình đã được giác ngộ. Có ba nghĩa:
1. Phần tự lợi:Tức là "Hữu tình giác", nghĩa là chúng hữu tình đã giác ngộ, nhưng chưa được hoàn toàn như Phật. Vì cò vi tế sở tri ngu, nên giác mà còn hữu tình.
2. Phần lợi tha: Tức là "Giác hữu tình"; nghĩa là phần minh đã giác ngộ, rồi giác ngộ cho chúng sanh.
3. Phần tự lợi, tự tha: Tức là "Tự giac, giác tha"; nghĩa là trên cầu đạo Phật để giác ngộ cho mình, dưới giáo hoá chúng sanh.
Nghĩa thứ nhứt, túc là "Trí", nghĩa thứ hai tức là "Bi", nghĩa thứ ba cả Bi và Trí. Bồ Tát "Bi, Trí" gồm đủ. "Lý, Sự" vô ngại, nên gọi là "Quán Tự Tại Bồ Tát".
ĐI SÂU VÀO TRÍ HUỆ BÁT NHÃ:Tức là Bồ Tát đã thâm nhập Trí huệ Bát Nhã.
NĂM UẨN ĐỀU KHÔNG: Hàng Nhị thừa phá cái chấp ngã; nhưng cò chấp pháp; nghĩa là thấy không có "ngã", nhưng còn năm uẩn. Hàng Đại thừa Bồ Tát, thì ngã pháp đều phá; nghĩa là ngã đã không mà năm uẩn cũng không.
Năm uẩn là: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Ngài Huyền Trang dịch là "ngũ uẩn". Chữ "uẩn" là "chứa nhón"; nghĩa là năm món này tích tụ chứa nhóm làm thân và làm tâm.
Cựu dịch là "ngũ ấm". Chữ "Ấm" là che đậy; nghĩa là năm món này che đậy chơn tâm thanh tịnh, như mây che mặt nhựt.
Tóm lại, tất cả sự vật trong vũ trụ, không ngoài thế giới và chúng sanh. Thế giới chúng sanh không ngoài Sắc (vật chất) và Tâm (tinh thần).
Sắc tức là sắc uẩn: tâm tức là tâm uẩn: thọ, tưởng, hành, thức. Bởi thế nên nói "năm uẩn đều không", tức là nói "thế giới và chúng sanh hay tất cả sự vật trong vũ trụ đều không".
KHỒ: các khổ vô biên nhưng tóm lại có ba món khổ: khổ khổ, hoại khổ và hành khổ; hay tám món khổ là: sanh khổ, lão khổ, bịnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ, cầu bất đắc khổ (xem Khổ đế trong quyển Tứ Diệu Đế, do hương Dạo xuất bản).
***
PHẦN CHÁNH TÔN
CHÁNH VĂN
Ngài gọi ông Xá Lợi Tử dạy rằng: "Này Xá Lợi Tử ! năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) chẳng khác với "không" (Bát Nhã), "không" chẳng khác với năm uẩn tức là "không" (Bát Nhã), "không" tức là năm uẩn.
LƯỢC GIẢI
Đại ý đoạn này nói: Năm uẩn tức là: "không" (Bát Nhã), "không"tức là năm uẩn.
Nói năm uẩn tức là nói tất cả các pháp. Tất cả các pháp có hai phần: Tánh và Tướng. Tánh của các pháp thì không có hình tướng. Kinh gopị là "không tướng" (thị chư phàp không tướng). Bởi "không tướng" nên không sai khác, không sanh diệt, không hư hoại v.v...cũng gọi là thật tướng, chơn tướng, chơn tánh, chơn không, chơn như hay chơn tâm v.v...
Tướng của các pháp thì có hình tướng, như năm uẩn hay các pháp sai khác, có sanh diệt, hư dối không thật, rốt cuộc hoàn không. Kinh chép: "Ngũ uẩn giai không".
Thí dụ như vòng, kiềng, xoa, xuyến là "tướng" của vàng; băng, tuyết, mù sương, nước đá là "tướng" của nước, đều có sanh diệt, hư giả không thật, rốt cuộc đều trở về không. Còn "tánh" của vàng hay "tánh" của nước thì không có các tướng:dài, ngắn, vuông, tròn v.v...(dụ cho không tướng). Vì "không tướng" nên không sanh diệt hư hoại; dụ như thật tướng, chơn tướng hay chơn không v.v...(Đây chỉ là thí dụ cho dễ hiểu, chứ không phải "vàng" hay "nước" là thật tướng hay chơn tướng v.v...).
Đoạn kinh này có hai từng đạo lý, cạn và sâu khác nhau. Từng đạo lý thứ nhất, dùng hai chữ "chẳng khác":
Năm uẩn "chẳng khác" với không
Không "chẳng khác" với năm uẩn.
Nghĩa là đem "năm uẩn" với "chơn không" để so sánh nhau: Lấy "năm uẩn" so sánh với "chơn không" không khác; và lấy "chơn không" để so sánh với:năm uẩn"cũng không khác. Tuy không khác, nhưng có người hiểu: vẫn còn một bên "năm uẩn" và một bên "chơn không". Cũng như nói "sóng và nước không khác", nhưng vẫn còn chấp; sóng và nước hai thứ riềng biệt.
Đến từng đạo lý thứ hai, có phần sâu hơn, lại dùng hai chữ "tức là":
Năm uẩn "tức là" không
Không "tức là" năm uẩn.
Nghĩa là: "năm uẩn" tức là "chơn không", "chơn không" tức là "năm uẩn". Năm uẩn với chơn không, không còn hai phần riêng biệt nữa. Cũng như nói: sóng tức là nước, nước tức là sóng, không có riêng khác.
Từng đạo lý thứ nhứt nói: Năm uẩn "chẳng khác" với Không, Không "chẳng khác" với Năm uẩn, tức là nói:
Tướng của các pháp "chẳng khác" với tánh của các pháp. Tánh của các pháp "chẳng khác" với Tướng của các pháp. Cũng như nói: Kẹo (tướng) "không khác" với đường (tánh); Đường "không khác" với kẹo.
Từng đạo lý thứ hai nói: Năm uẩn "tức là" Không. Không "tức là" Năm uẩn; tức là nói:
Tướng của các pháp "tức là" Tánh của các pháp. Tánh của các pháp "tức là" Tướng của các pháp. Cũng như nói: Kẹo (tướng) "tức là" Đường (tánh); Đường "tức là" kẹo.
Muốn rõ thêm đoạn kinh này, chúng tôi xin thí dụ như sau: Như người mê ngủ chiêm bao (dụ chúng sanh mê muội) thấy các cảnh vật khô vui v.v...Vì mê mộng nên họ chấp các cảnh vật ấy là thật, rồi cũng vui buồn cười khóc v.v...
Trái lại, người thức (dụ Bồ Tát tu Trí huệ Bát Nhã) thấy các cảnh chiêm bao kia đều không (ngũ uẩn giai không) nên không bị cãnh chiêm bao làm cho họ khổ sở (độ nhứt thế khổ ách).
Người thức kia (dụ Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát) biết rằng: Vì tâm chiêm bao hiện ra các cảnh chiêm bao, nên nói:
"Cảnh chiêm bao (sắc) "không khác" với tâm chiêm bao (không), Tâm chiêm bao "không khác" với cảnh chiêm bao; cảnh chiêm bao "tức là" Tâm chiêm bao, Tâm chiêm bao "tức là" cảnh chiêm bao.
Lên một từng nữa, Phật day:
Chúng sanh vì mê bản thể chơn tâm thanh tịnh của mình (chơn không) nân vọng hiện ra thế giới và chúng sanh, tức là cảnh giới của chúng ta sống đây (trong kinh cũng gọi là cảnh đại mộng). Rồi chúng sanh vọng chấp cho là cảnh thật, nên cũng mừng giận khổ vui v.v...cũng như người chiêm bao (tiểu mộng) không khác, nên gọi là "mộng tưởng diên đảo).
Bồ Tát đã giác ngộ (như người thức tỉnh) dùng Trí huệ Bát Nhã (như trí của người thức) thấy cảnh giới của chúng ta đang sống đây là cảnh đại mộng, đều do tâm hiện ra, nên Bồ Tát dạy: "các pháp đều không" (ngũ uẩn giai không), do tâm hiện ra, nên các pháp chẳng khác với tâm (không), tâm chẳng khác với các pháp; các pháp tức là tâm, tâm tức là các pháp".
Tóm lại, đồng một bản thể chơn tâm thanh tịnh không khác, nhưng chúng sanh vì vô minh vọng tưởng điên đảo, nên thấy có năm uẩn hay thế giới chúng sanh, rồi theo cảnh đại mộng này mà thọ khổ.
Trái lại, Bồ Tát đã giác ngộ (người đã thức giấc đại mộng) dùng Trí huệ Bát Nhã thấy cảnh đại mộng này (5 uẩn hay các pháp) đều không, chỉ do tâm hiện ra, nên không còn bị các khổ của cảnh đại mộng nữa (độ nhứt thế khổ ách).
Vì chúng sanh mê, từ "tánh không" hiện ra "có sắc", nên nói:"sắc, chẳng khác với không", nên nói: " không, chẳng khác sắc", hay không tức là "sắc"
GIẢI DANH TỪ
XÁ LỢI TỬ: Có nhà dịch "Xá Lợi Phất" hay "Xá Lợi Phất Đa La". Chữ "phất" đồng nghĩa với chữ "Tử"(con). Ông Xá Lợi Tử là bực đại đệ tử của Phật, Trí huệ thứ nhứt.
Bà mẹ ông tên Xá Lợi, thông minh xuất chúng, biện luận nổi danh trong xứ, nhứt là trong khi có mang ông.
Theo phong tục Ấn Độ, thường lấy tên mẹ đặt tên con, nên gọi ông là Xá Lợi Tử (hay Phất); nghĩa là con bà Xá Lợi.
Theo bản dịch của Ngài Thi Hộ chép: "Trong khi Đức ThếTôn ở non Linh Thứu nhập định Thậm thâm quang minh, nói chánh pháp Tam ma đề, thì ông Xá Lợi Phất bạch với Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát rắng: "Nếu có người muốn tu pháp môn thậm thâm Bát Nhã, thì phải tu như thế nào? Nhơn đó ngài Quán Tự Tại gọi ông Xá Lợi Phất mà giảng nói kinh này".
SẮC, tức là "sắc uẩn": Các vật chất chứa nhóm lại thành ra những hình tướng, như thân thể và cảnh vật, gọi là "sắc uẩn".
Sắc uẩn gồm 11 món: Năm căn và sáu trần.
Năm căn là:
1. Nhãn căn: Con mắt
2. Nhỉ căn: Lỗ tai
3. Tỹ căn: Lỗ mũi
4. Thiệt căn: Cái lưỡi
5. Thân căn: thân thể
Sáu trần là:
1. Sắc trần: Cảng bị thấy của mắt
2. Thanh trần: Tiếng bị nghe của tai
3. Hương trần: Mùi bị ngửi của mũi
4. Vị trần: Vị bị nếm của lưỡi
5. Xúc trần: Cảnh bị xúc của thân
6. Pháp trần: Cảnh bị biết của ý thức; tức là "vô biểu sắc". Sắc này không tiêu biểu ra ngoài, nhưng đối với nội tâm (ý thức) chúng ta có thể thấy rõ ràng.
THỌ, tức là "thọ uẩn". Thọ là lãnh thọ. Sau khi tiếp xúc với cảnh rồi, sanh lãnh thọ. Sự lãnh thọ có năm: 1. Thọ khổ, 2. Thô vui, 3. Thọ buồn, 4. Thọ mừng, 5. Thọ không vui buồn.
TƯỞNG, tức là "Tưởng uẩn". Tưởng là tưởng nhớ hình tượng của các cảnh. Do sau khi tiếp xúc và lãnh thọ các cảnh khô vui rồi, sanh ra tưởng nhớ.
HÀNH, tức là "Hành uẩn". Hành là sự thay đổi biến chuyển của tâm niệm. Trong 51 món Tâm sở, trừ Thọ và Tưởng ra, còn 49 món Tâm sở và 24 món Tâm Bất tương ưng, đều thuộc về Hành uẩn.
THỨC, thức là "Thức uẩn". Thức nghĩa là hiểu biết phân biệt; có khả năng biến hiện ra các cảnh và phân biệt các cảnh. Thức, chia ra làm tám loại:
1. Nhãn thức: Cái biết của mắt, phân biệt các cảnh sắc.
2. Nhĩ thức: Cái biết của tai, phân biệt các tiếng tăm.
3. Tỹ thức: Cái biết của mũi, phân biệt các mùi.
4. Thiệt thức: Cái biết của lưỡi, phân biệt các vị trần.
5. Thân thức: Cái biết của thân, phân biệt xúc trần.
6. Ý thức: Cái biết của ý, phân biệt các pháp trần (cảnh nội tâm).
7. Mạt na thức: Cái biết thứ 7, chấp thức thứ 8 làm ngã.
8. A lại da thức: Cái biết thứ 8, chứa chủng tử các pháp
Vật chất Sắc Sắc pháp II
Thọ Tâm sở 51 món 91 pháp
5 UẨN Tưởng Tâm bất hữu vi
Tinh thần Hành tương ưng 24
Thức Tâm Vương 8
KHÔNG, tức đoạn sau nói "Không tướng". Cái "không" đây, không phải hư không, ngoan không hay cái "không" đối với cái có; cũng không phải thủ tiêu hết các vật hữu hình mà nói là không; và cũng không phải cái"không" của Tiểu thừa (Thiên không).
Cái "không" đây, tức là bản tánh thanh tịnh không có các hình tướng, nên gọi là "không tướng" (tướng không). Vì nó không sanh diệt, không hư dối, nên cũng gọi là "chơn không" hay thật tướng, chơn tướng, chơn tánh, chơn tâm, chơn như v.v...
Tóm lại, kinh này nói "năm uẩn" tức là bên Duy thức nói "94 pháp hữu vi". Kinh này nói "không" hay "không tướng", tức là bên Duy thức nói "sáu pháp vô vi".
Kinh này nói: "Sắc chẳng khác với không" hay nói: "Sắc tức là không", là nói"Pháp hữu vi tức là pháp vô vi".
***
CHÁNH VĂN
Này Xá Lơ Tử ! "Tướng không" (Bát Nhã) của các pháp đây, nó không sanh không diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt.
LƯỢC GIẢI
Đoạn kinh này nói: Tánh (Bát Nhã) của các pháp, không sanh không diệt, không cấu tịnh v.v...
Đoạn thứ nhứt nói:" Năm uẩn đều không", đoạn thứ hai nói:" Sắc chẳng khác với không", hay " sắc tức là không v.v...", đoạn này nói:? tướng không của các pháp"; chữ "Không" ở trong ba đoạn này đều chỉ cho "Trí huệ Bát Nhã", tức là "Tánh" của các pháp.
"Tánh" của các pháp không có hình tướng: không có tướng sanh, không có tướng diệt, không có tướng cấu nhiễm của phàm phu, không có tướng thanh tịnh của chư Phật. Khi ngộ nó không thêm, lúc mê nó cũng không bớt. Bởi thế nên cũng gọi là "không tướng" (tướng không), chơn tướng, thật tướng, chơn tánh, chơn tâm, chơn như, chơn không hay thật tướng Bát Nhã v.v...
Tóm lại, "Tánh" của các pháp là "chơn tâm thanh tịnh sáng suốt", không có các hình tướng, nên gọi là "không tướng" hay "Bát Nhã chơn không".
GIẢI DANH TỪ
Pháp: Chỉ chung cho tất cả sự vật: tinh thần, vật chất, hữu hình vô hình, hữu vi vô vi, thánh phàm v.v...Chẳng những bàn ghế v.v...là "pháp", cho đến hư không cũng là "pháp". Bóng trong gương, trăng dưới nước là "pháp", mà lông rùa, sừng thỏ cũng là "pháp", cho đến tư tưởng tâm niệm cũng là "pháp". Phàm những cái gì, tự nó giữ được cái bản chất của nó làm cho người biết được nó là cái gì, thì đều gọi là "pháp".
Tóm lại, nói rộng là "tất cả pháp", nói hẹp là "năm uẩn?. Nói "năm uẩn là chơn không" tức là nói "các pháp là chơn không". Chính ở nơi các pháp mà nhận tướng "chơn không", chẳng phải ngoài các pháp, riêng có một tướng chơn không".
***
CHÁNH VĂN
Bởi thế nên, trong "Tướng không" (Bát Nhã) không có 5 uẩn là: sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không có 6 căn là: nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý; không có 6 trần là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; không có 6 thức là: nhãn thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức.
LƯỢC GIẢI
Đoạn kinh này nói: Trong "Tướng không" (Bát Nhã) không có các pháp thế gian.
Vì "Tướng không" của các pháp (Bát Nhã) không sanh diệt, không cấu tịnh, không tăng giảm v.v...nên trong "Tướng không" (Bát Nhã) không có 5 uẩn, mười hai xứ (6 căn, 6 trần), mười tám giới (6 căn, 6 trần, 6 thức) . cũng như trên màn bạc (dụ Tướng không) không có các hình ảnh.
Thật ra, nói "năm uẩn" tức là gồm cả mười hai xứ và mười tám giới; trái lại, nói "mười hai xứ", cũng gồm cả năm uẩn và mười tám giới; hay nói "mười tám giới" cũng gồm cả mười hai xứ và năm uẩn.
Sở dĩ phân chia riêng khác như vậy, là vì Phật phá sự chấp ngã của chúng sanh: Người chấp nặng về phần tinh thần (tâm) là Ngã, thì Phật nói "năm uẩn", chia chẻ tinh thần (tâm) ra làm bốn phần là: thọ, tưởng, hành và thức để phá chấp. Còn "Sắc" không cần chia chẻ.
Người chấp nặng về phần vật chất (chấp thân) là Ngã, thì Phật nói "mười hai xứ", chia chẻ sắc ra làm 12 phần là 6 căn và 6 trần, để phá chấp.
Người chấp cả tinh thần (tâm) và vật chất (sắc) làm Ngã, thì Phật nói "mười tám giới" chia chẻ cả tinh thần và vật chất ra làm 18 phần là 6 căn, 6 trần và 6 thức để phá chấp.
Tóm lại, trong Bát Nhã (Tướng không) không có các pháp của thế gian là năm uẩn, sáu căn, sáu trần và sáu thức.
GIẢI DANH TỪ
NĂM UẨN: (xem phần "giải danh từ" của đoạn thứ nhứt, về câu "năm uẩn đều không").
SÁU CĂN: (xem phần "giải danh từ" của đoạn thứ hai, về câu "sắc tức là sắc uẩn").
SÁU TRẦN: (xem phần "giải danh từ" của đoạn thứ hai, về câu "sắc tức là sắc uẩn").
SÁU THỨC: (xem phần "giải danh từ" của đoạn thứ hai, về chữ "Thức tức là thức uẩn).
***
CHÁNH VĂN
Không có mười hai nhơn duyên, nghĩa là không có "vô minh", và cũng không có "hết vô minh", cho đến không có "lão tử" và cũng không có "hết lão tử".
LƯỢC GIẢI
Đoạn kinh này nói:Trong "Tướng không (Bát Nhã) không có 12 nhơn duyên là pháp tu xuất thế gian của Thánh Duyên giác.
Trong Bát Nhã chơn không, cũng không có 12 nhơn duyên: Về phần lưu chuyển là Vô minh duyên Hành, cho đến duyên Lão tử. Và về phần hoàn diệt là Vô minh diệt thì Hành diệt, cho đến Lão tử diệt.
Bực Thánh Duyên giác, nhờ quán sự lưu chuyển của 12 nhơn duyên, mà thấu rõ được nguồn gốc của sanh tử luân hồi; và cũng nhờ quán sự hoàn diệt của 12 nhơn duyên mà được ngộ đạo.
Quán sự "Lưu chuyển" của 12 nhơn duyên như thế nào, mà thấy rõ được nguồn gốc của sanh tử luân hồi? Hành giả quán 12 nhơn duyên xoay vần tiếp nối lẫn nhau, như sợi dây chuyền có 12 khoen: khoen này chuyền khoen kia, khoen kia chuyền khoen nọ, như cái vòng tròn không mối.
Chúng sanh vì đời trước mê lầm (quá khứ căn bản vô minh) nên tạo ra các nghiệp (hành). Hai món này (vô minh và hành) làm nhơn quá khứ.
Sau khi chết bị nghiệp lực dẫn dắt tinh thần (thức) đi thọ thân (danh, sắc). Khi thành thân, tất nhiên có 6 căn (nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt v.v..) là chỗ của 6 trần phản ảnh vào (lục nhập). Khi có 6 căn tiếp xúc (xúc) với 6 trần, rồi sinh ra lãnh thọ (thọ) sự khổ và vui. Năm món này (thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ) là quả hiện tại.
Khi thọ quả hiện tại, trở lại tạo nhơn nữa là ưa thích (ái), tìm cầu (thủ), làm sao cho có (hữu). Ba món này (ái, thủ, hữu) làm nhơn hiện tại (tức là chi mạt vô minh).
Do ưa thích tìm cầu cho được, nên tạo nghiệp để thọ sanh thân sau (sanh). Khi đã có thân (tất nhiên phải có thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ) thì phải già và chết (lão, tử). Ba món này (sanh, lão, tử) là quả vị lai.
Trong khi thọ quả vị lai, rồi trở lại tạo nhơn nữa (ái, thủ, hữu) để thọ quả vị lai lần nữa, cho đến vô cùng tận.
(xem biểu đồ)
Quả hiện tại
(thức, danh sắc, lục nhập, xúc,thọ)
Quả vị lai
(sanh, lão,tử)
Quán về sự "Hoàn diệt" của 12 nhơn duyên:Sau khi hành giả quán sát nguồn gốc của sanh tử luân hồi là do 12 nhơn duyên, nhưng trọng tâm là vô minh. Hành giả muốn dứt sanh tử luân hồi, tức nhiên phải diệt trừ vô minh. Nếu vô minh bị diệt trừ thì hành diệt, cho đến lão tử diệt.
Vô minh có 2 loại: căn bản vô minh, tức là vô minh quá khứ (vô minh, hành), và chi mạt vô minh, tức là vô minh hiện tại (ái, thủ, hữu). Vô minh quá khứ rất khó diệt trừ. Hành giả chỉ có thể diệt trừ vô minh hiện tại là ái, thủ, hữu. Nếu ái, thủ, hữu diệt rồi, thì sanh và lão tử không còn. Không còn sanh và lão tử, thì làm gì có sanh tử luân hồi (xem Phật học Phổ thông khoá thứ tư, giải thích rất rõ).
Tóm lại, trong Bát Nhã (Tướng không, hay chơn như, chơn tâm v.v...) không có pháp tu xuất thế gian của Thánh Duyên giác là 12 nhơn duyên, cả lưu chuyển và hoàn diệt.
GIẢI DANH TỪ
VÔ MINH: Không sáng suốt, tức là si mê làm lạc. Nói chung là mười món căn bản phiền não và 20 món tuỳ phiền não .
HÀNH: Hành động, tạo tác các nghiệp.
THỨC: thần thức, tức là phần tinh thần trong con người.
DANH SẮC: Danh là chỉ cho Tâm, về phần tinh thần chỉ có cái tên; còn Sắc là sắc thân về phần vật chất. Đây là chỉ cho trạng thái khi mới thọ thân, tinh thần và vật chất mới vừa phối hợp, chưa có mắt, tai, mũi, lưỡi v.v...
LỤC NHẬP: Sáu chỗ vào. Khi thân thể đã đủ 6 căn (nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý) là chỗ của 6 trần cảnh phản ảnh vào.
XÚC: Khi đã có 6 căn, bắt đầu tiếp xúc với 6 trần.
THỌ: Sau khi tiếp xúc với 6 trần cảnh rồi lãnh thọ các cảnh.
ÁI: Sau khi lãnh thọ trần cảnh rồi sanh tâm ưa thích.
THỦ: Cầu thủ. Sau khi ưa thích rồi tìm cầu và nắm giữ.
HỮU: Có. Sau khi cầu thủ rồi gây tạo thế nào cho có.
SANH: Vì đã tạo nhơn là ưa thích, cầu thủ gây tạo cho có, tức là tạo nghiệp, nên phải thọ quả là sanh đời sau.
LÃO TỬ: Sau khi sanh ra đã có thân, tất nhiên phải bị già rồi chết.
***
CHÁNH VĂN
Không có Tứ đế là:khổ, tập, diệt, đạo; cũng không có "Trí" tu chứng và đạo quả để chứng (đắc). Tóm lại, trong "Tướng không" (Bát Nhã) không có "đặng" cái gì cả.
LƯỢC GIẢI
Đoạn kinh này nói:Trong "Tướng không" (Bát Nhã) không có các pháp xuết thế gian như Tứ đế, Lục độ v.v....
Trong đoạn kinh này, chia làm ba phần:
1. Trong Bát Nhã chơn không, không có Tứ diệu đế là pháp tu của bốn quả Thánh Thinh văn
2. Trong Bát Nhã chơn không, cũng không có "Trí", là người tu chứng và "Đắc", là đạo quả để chứng. Trong phần này lại có 2 nghĩa:
a. Nói chung, từ trước đến đây, theo văn kinh thì chỉ phá riêng về "pháp chấp"; nghĩa trong Bát Nhã chơn không, không có pháp ngụ uẩn, pháp Tứ đế, pháp Thập nhị nhân duyên v.v...Đến đây, mới phá chung cả ngã chấp và pháp chấp; nghĩa là trong Bát Nhã chơn không, không có người tu (ngã) và chứng (pháp); nói chung cả pháp Lục độ và quả Phật.
b. Nói riêng, câu "không có trí và cũng không có chứng", có thể chỉ riêng cho pháp Lục độ. Vì từ trước đã nói "Trong Bát Nhã chơn không, không có pháp Tứ đế của Thinh văn, pháp Thập nhị nhơn duyên của Duyên giác"; đến đoạn văn này tất nhiên, "Trong Bát Nhã chơn không, cũng không có pháp Lục độ của Bồ Tát".
3. Tóm lại, trong Bát Nhã chơn không, không có "Đặng" cái gì cả. Đoạn này cũng có 2 nghĩa:
a. Nói chung, trong Bát Nhã chơn không, không có các pháp thế gian là năm uẩn mười hai xứ, mười tám giới và cũng không có các pháp xuất thế gian là Tứ đế, Thập nhị nhơn duyên, Lục độ, rốt sau là quả Phật. Nói tóm lại, là "không có đặng cái gì cả".
b. Nói riêng, câu "không có đặng cái gì cả", có thể chỉ riêng cho đạo quả Bồ Đề Niết bàn của Phật. Vì từ trước đã nói: Trong Bát Nhã chơn không, không có pháp tu của Tam thừa là Tiểu thừa (Thinh văn), Trung thừa (Duyên giác) và Thượng thừa (Bồ Tát); đến đoạn văn này tất nhiên trong Bát Nhã chơn không, cũng không có Tối thượng thừa là quả vị Phật. Vì từ trước đã nói: Trong Bát Nhã chơn không, không có pháp tu của Tam thừa là Tiểu thừa (Thinh văn), Trung thừa (Duyên giác) và Thượng thừa (Bồ Tát); đến đoạn văn này tất nhiên trong Bát Nhã chơn không, cũng không có Tối thượng thừa là quả vị Phật.
Tóm lại, trong "Tướng không" hay trong "Bát Nhã" không có Tứ thánh (Thinh văn, Duyên giác, Bồ Tát, Phật) và Lục phàm (Thiên, nhơn, A tu la, Địa ngục, Ngạ quỉ và Súc sanh) hay nói một cánh khác là: "không có pháp gì cả".
GIẢI DANH TỪ
TỨ ĐẾ, Tức là Tứ Diệu Đế: Bốn sự thật, chắc chắn, muôn đời không thay đổi.
KHỒ, Tức Khổ đế; chơn lý chắc chắn trình bày rõ ràng cho chúng ta thấy tất cả những nỗi đau khổ trên thế gian này, mà mỗi chúng ta đều phải chịu, như ba khổ: 1. Khổ trên cái khổ (khổ khổ), 2. Khổ vì hư hoại (hoịa khổ), 3. Khổ vì thay đổi biến chuyển (hành khổ). Và tám khổ: 1. Sanh khổ, 2. Bịnh khổ, 3. Già khổ, 4. Chết khổ, 5. Đang thương nhau bị xa lìa là khổ, 6. Đang thù oán giận hờn lại gặp nhau là khổ, 7. Mong cầu không được là khổ (thất vọng), 8. Năm ấm quá thạnh là khổ (xem quyển Tứ Diệu Đế).
TẬP, tức là Tập đế: chơn lý chắc thật trình bày nguyên nhơn của bể khổ trần gian là lý do vì đâu mà có những nỗi khổ này. Khổ đế như là bản kê hiện trạng của bịnh; còn Tập đế như là bản nói rõ nguyên nhơn của chứng bịnh, lý do vì sao bịnh.
Tập là nhóm chứa; nghĩa là nhóm chứa các phiền não mê lầm. Phiền não rất nhiều, nói rộng thì đến 84000 món, nói hẹp thì có 10 món căn bản phiền não và 20 món chi mạc phiền não (xem quyển Tứ Diệu Đế, giải rõ).
DIỆT, tức là Diệt đế hay Niết bàn. Kinh chép: "Các phiền não diệt gọi la Niết bàn. Xa lìa các pháp hữu vi cũng gọi là Niết bàn". Niết bàn có nhiều loại:
1. Hữu Dư Y Niết bàn: Từ quả thánh thứ nhứt cho đến quả thánh thứ ba của Tiểu thừa tuy đã chứng Niết bàn, nhưng cái dư báo hãy còn.
2. Vô Dư Y Niết bàn: Đến quả thánh thứ tư, là A La Hán thì các phiền não nghiệp báo không còn, hoàn toàn chứng được quả Niết bàn.
3. Vô Trụ Xứ Niết bàn: Đây là quả Niết bàn của Bồ Tát. Bồ Tát đã tự tại giải thoát, nên chỗ nào cũng là cảnh Niết bàn của quí Ngài (xem quyển Tứ Diệu Đế).
ĐẠO, tức là Đạo đế: phương pháp tu chơn chánh, chắc chắn để đến đạo quả Niết bàn. Phương pháp có 37 phẩm, chia làm 7 loại:
1. Tứ niệm xứ 2. Tứ chánh cần
3. Tứ như ý túc 4. Ngũ căn
5. Ngũ lực 6. Thất Bồ Đề
7. Bát Chánh Đạo (xem quyển Tứ Diệu Đế).
CHÁNH VĂN
Các vị Bồ Tát nhờ y theo Trí huệ Bát Nhã (Tướng không) mà xa lìa được các cảnh mộng tường điên đảo nên tâm không còn ngăn ngại, lo sợ và chứng rốt ráo Niết bàn.
LƯỢC GIẢI
Đoạn kinh này nói: Bồ Tát nhờ y theo Trí huệ Bát Nhã mà xa lìa được các cảnh sợ hãi của mộng tưởng điên đảo và chứng rốt ráo Niết bàn.
Vì trong Trí huệ Bát Nhã không có "Đặng" cái gì cả nên Bồ Tát mới y theo Trí huệ Bát Nhã (Tướng không) mà xa lìa các điên đảo sợ hãi trong cảnh sanh tử đại mộng và chứng đặng rốt ráo quả Niết bàn. Đoạn này đồng nghĩa với bài tụng thứ 29, trong quyển Duy thức Tam thập tụng
Nguyên văn bài tụng (dịch âm)
Vô đắc bất tư nghị
Thị xuất thế gian trí
Xả nhị thô trọng cố
Tiện chứng đắc chuyển y.
Nghĩa là: cảnh giới "vô đắc" (không đặng) không thể nghĩ bàn. Vì cảnh giới này là trí xuất thế gian, đã bỏ hai món Thô trọng (phiền não chướng và Sở tri chướng) và chứng đặng hai món Bồ Đề Niết bàn.
Mới đọc qua đoạn văn này và doạn văn tiếp sau, chúng ta thấy hình như mâu thuẩn với đoạn văn trên. Vì trong đoạn văn trên nói: "trong Bát Nhã chơn không, không có đặng cái gì cả"; còn đoạn văn này và đoạn văn tiếp sau đây lại nói: "Bồ Tát nhờ y theo Trí huệ Bát Nhã mà chứng đặng rốt ráo Niết bàn. Chư Phật cũng nhờ y theo Trí huệ Bát Nhã mà đặng đạo Vô thượng Bồ Đề ".
Nhưng xét kỹ thì không phải mâu thuẩn. Vì "không có đặng cái gì cả", nên mới đặng tất cả. Cũng như cái gương hay màn bạc, nhờ không giữ chặt một hình ảnh gì cả, nên các hình ảnh mới hiện đủ cả.
Cũng thế, trong Bát Nhã chơn không, vì không có một hình ảnh gì cả, nên tuỳ tịnh duyên hiện ra bốn quả thánh; tuỳ nhiểm duyên hiện ra sáu quả phàm, không thiếu một pháp nào cả.
Tất cả chúng sanh, vì mê muội tánh Bát Nhã, nên trong chỗ không có cảnh vật mà tự thấy có đủ các cảnh vật, nào thế giới chúng sanh và sanh tử luân hồi v.v...Cũng như người ngủ chiêm bao, trong chỗ không có cảnh vật, mà hiện ra đủ các cảnh vật vui, buồn v.v...nên gọi là "mộng tưởng điên đảo". Rồi người chiêm bao kia, tâm bị cảnh vật trong chiêm bao chi phối, làm cho họ phải buồn rầu lo sợ, lắm điều chướng ngại.
Các vị Bồ Tát nhờ y theo Trí huệ Bát Nhã (Tướng không), thấy ngã, pháp đều không, năm uẩn chẳng có, thế giới và chúng sanh không còn, nên tâm không còn bị cảnh vật làm chướng ngiạ hay chi phối nữa, và không còn buồn lo sợ hãi. Cũng như người thức giấc chiêm bao, vì thấy cảnh chiêm bao là không, nên tâm không còn bị cảnh vật trong chiêm bao làm chướng ngại chi phối; không còn bị buồn lo sợ hãi bởi cảnh chiêm bao. Bởi thế nên nói: "Bồ Tát nhờ y theo Trí huệ Bát Nhã, nên xa lìa các mộng tưởng điên đảo, tâm không còn bị chướng ngại và lo sợ v.v..."
Người đã hoàn toà thức giấc chiêm bao, thì người ấy được an vui với cảnh thức tĩnh, không còn một tí gì sợ hãi lo buồn, bởi cảnh mê mộng nữa. Cũng thế, Bồ Tát khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã, thì không còn bị cảnh thế gian đại mộng này làm cho tâm họ có một tí gì lo buồn sợ hãi nữa. Các Ngài hoàn toàn tự tại giải thoát và an vui với cảnh Niết bàn tịch mịch, nên nói: "rốt ráo Niết bàn".
Tóm lại, Bồ Tát nhờ y theo Trí huệ Bát Nhã, nên xa lìa các mộng tưởng điên đảo, không còn bị các khổ sanh tử và được rốt ráo Niết bàn.
***
GIẢI DANH TỪ
NIẾT BÀN, hay Niết bàn Na hay Nê hoàn, là do dịch âm chữ Phạn "NIrvana" mà ra. Niết bàn có nhiều nghĩa:
NIẾT (nir) là ra khỏi; Bàn (vana) là rừng mê. Niết bàn là ra khỏi rừng mê
Niết là chẳng; bàn là dệt; nghĩa là chẳng dệt ra sanh tử luân hồi nữa. Chữ Bàn cũng có nghĩa là không ngăn ngại.
Niết bàn còn rất nhiều nghĩa nữa, song tóm lại không ngoài ba nghĩa như sau:
1. Bất sanh: Nghĩa là không còn sanh ra các thứ mê lầm tội lỗi nữa.
2. Giải thoát: Nghĩa là thoát ra ngoài sụ ràng buộc, không mắc vào các phiền não triền phược nữa.
3. Tịch diệt: nghĩa là vắng lặng, dứt sạch. Vắng lặng, an lành, dứt sạch tất cả nguồn gốc mê lầm. Vì Niết bàn có nhiều nghĩa như vậy, nên trong kinh thường để nguyên âm mà không có dịch nghĩa (xem quyển Tứ Diệu Đế).
***
CHÁNH VĂN
Các đức Phật quá khứ, hiện tại và vị lai cũng đều y theo Trí huệ Bát Nhã này (Tướng không) mà đặng đạo Vô thượng Bồ Đề.
LƯỢC GIẢI
Đoạn kinh này nói: Chư Phật nhờ y theo Trí huệ Bát Nhã mà chứng đặng Bồ Đề.
Tất cả chư Phật trong ba đời, quá khứ, hiện tại và vị lai, trong khi tu nhơn, các Ngài đều dùng Trí huệ Bát Nhã, chiếu phá sạch hết các mây mù vô minh phiền não từ vô thỉ đến nay; nào ngã chấp pháp chấp đều không còn. Lúc bấy giờ chơn tâm, Phật tánh hay thật tướng Bát Nhã hiện ra, các Ngài chứng đặng đạo Vô thượng Bồ Đề, cũng gọi là thành Phật.
Tóm lại, tất cả những người tu hành, từ phàm phu (Thập tín) trải qua Tám Hiền (Thập trụ, Thập hạnh và Thập hồi hướng) đến Thập Thánh (Thập địa) rốt sau là quả Phật, không địa vị nàovà cũng không giờ phút nào, chẳng dùng Trí huệ Bát Nhã; nghĩa là nhờ Trí huệ Bát Nhã mà đặng thành tựu viên mãn. Bởi thế nên kinh chép: "Trí huệ là mẹ sanh ra tất cả chư Phật ".
GIẢI DANH TỪ
BỔ ĐỀ: Bồ Đề là dịch âm chữ Phạn "Bodhi" . Cựu dịch là "Đạo", nghĩa là thông suốt. Tân dịch là "Giác", có nghỉa là giác ngộ, mà giác ngộ tức là Phật (Phật dịch nghĩa là Giác)
VÔ THƯỢNG BỔ ĐỀ: Tức là quả Phật Bồ Đề, không có quả Phật Bồ Đề nào trên nữa.
Bồ Đề có nhiều từng bực:
1. Sơ phát tâm Bồ Đề (người mới phát tâm Phật)
2. Thinh văn Bồ Đề
3. Duyên giác Bồ Đề
4. Bồ Tát Bồ Đề
5 Phật Bồ Đề (cũng gọi là Vô thượn Bồ Đề)
CHÁNH VĂN
Vì Trí huệ Bát Nhã (Tướng không) hãy diệt trừ hết các khổ, chắc chắn như vậy không hư dối, nên gọi là Thần chú Bát Nhã Ba La Mật Đa, cũng gọi là chú Đại Thần, chú Đại minh, chú Vô thượng và chú Vô đẳng đẳng.
LƯỢC GIẢI
Đoạn kinh này nói: Trí huệ Bát Nhã, có công năng diệt trừ các khổ, nên cũng gọi là Thần chú Bát Nhã v.v...
Kinh này là kinh nhưng cũng là chú; vì người chí thành trì tụng, sẽ được linh nghiệm phi thường, tuỳ tâm mãn nguyện, cầu chi được nấy, mau lẹ phi thường, không khác gì thần chú, nên cũng gọi là "THần chú Bát Nhã Ba La Mật Đa".
Kinh này thần diệu không thể xét lường được. Người thọ trì đọc tụng kinh này sẽ được thành tựu công đức không thể nghĩ bàn và được đại giải thoát, nên gọi là "chú Đại thần".
Kinh này có khả năng phá trừ gốc rễ của vô minh phiền não từ vô thỉ đến nay, và làm hiển lộ Phật tánh sáng suốt, nên gọi là "chú Đại minh".
Người trì kinh này sẽ đặng đạo Vô thượng Bồ Đề, nên cũng gọi là "chú Vô thượng".
Người chí tâm trì tụng kinh này sẽ đặng Phật tánh bình đẳng như như bất động, và sẽ chứng được quả Phật là quả cao tột, không quả vị nào sánh bằng, nên gọi là "chú Vô đẳng đẳng".
Tóm lai, kinh này có công năng thần diệu phi thường, cũng như thần chú, có thể diệt trừ hết gốc rễ vô minh phiền não, làm cho hành giả hết khổ được đại giải thoát và minh tâm kiến tánh thành Phật, nên gọi là "chú Bát Nhã" v.v...
GIẢI DANH TỪ
CHÚ: Tiếng Phạn gọi là "Đà La Ni"; Trung Hoa dịch là "chú"; tức là những bài kinh không có nghĩa, cũng gọi là "mật giáo". Hành giả chí thành đọc tụng, sẽ được linh nghiệm như thần nên cũng gọi là "Thần chú"
***
CHÁNH VĂN
Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, liền nói thần chú Bát Nhã: "Yết đế yết đế, Ba la yết đế, Ba la tăng yết đế, Bồ Đề tát bà ha".
LƯỢC GIẢI
Đoạn kinh này nói về Thần chú Bát Nhã.
Tất cả kinh điển của Phật có thể chia làm hai loại: Hiển giáo và Mật giáo. Nhưng kinh sách nào giảng dạy nghĩa lý và phương pháp tu hành rõ ràng, hành giả y theo đó thật hành, sẽ được thành công đắc quả, thì gọi là Hiển giáo. Trái lại, như các Thần chú, hành giả không cần biết nghĩa lý, chỉ chí tâm trì tụng, sẽ được linh nghiệm phi thường, cầu chi được nấy, tuỳ tâm mãn nguyện, thì gọi là "Mật giáo".
Bát Nhã Tâm Kinh, đủ cả Hiển giáo và Mật giáo. Từ câu: "Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm v.v...cho đến câu: "tức thuyết chú viết", là thuộc về Hiển giáo. Từ câu: "Yết đế yết đế " cho đến câu "Bồ Đề tát bà ha", là thuộc về Mật giáo.
Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, trước nói kinh Bát Nhã, giảng giải nghĩa lý rõ ràng để cho người tu hành y theo đó thật hành sẽ đuợc trí tuệ Bát Nhã.
Tiếp theo kinh, Ngài nói thần chú Bát Nhã, để cho người tu hành, chí thành trì tụng (không cần biết nghĩa) tâm họ sẽ được định. Nhờ có định mới phát sanh ra Trí huệ và sẽ nhập được Thật Tướng Bát Nhã. Nghĩa là từ văn tự Bát Nhã tiến lên Quán chiếu Bát Nhã, rồi đến Thật Tường Bát Nhã.
Về Thần chú, từ xưa đến nay hầu hết chư Tổ, đều không dịch nghĩa. Bởi các lý do như sau:
1. Thần chú là mật ngữ (lời nói mật) của chư Phật, không phải chúng phàm phu có thể biết được.
2. Thần chú là tên của các vị Thần, đọc đến thì chư Thần sẽ đến bảo hộ cho hành giả được toại nguyện
3. Thần chú cũng như các mật hiệu của nhà binh, hành giả chí tâm trì tụng, sẽ được hiệu nghiệm phi thường.
4. Chữ "Chú" nghĩa là nguyện. Hành giả chí thành trì tụng, sẽ được tuỳ tâm mãn nguyện.
Tóm lại, Thần chú Bát Nhã thuộc về Mật giáo, có nhiều lý do không thể phiên dịch được. Người chí tâm trì tụng sẽ được lợi ích vô cùng vô tận.
Dịch tại PHƯỚC HẬU Cổ tự TRÀ ÔN
Dịch xong ngày 6 9 năm Ất Tî PLl 2509
Nhằm ngày 30 10 1965
💠 ĐẠI CƯƠNG KINH LĂNG NGHIÊM (Hòa Thượng Thích Thiện Hoa)
Triết Lý Ðạo Phật
hay là Ðại Cương Kinh Lăng Nghiêm
(Trích Phật Học Phổ Thông)
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa
-o0o-
A.- PHẦN DUYÊN KHỞI
B.- PHẦN CHÁNH ĐỀ
I.- Nguyên nhơn Phật nói kinh
II.- A Nan cầu Phật dạy phương pháp tu hành, lần thứ nhất.
III.- Phần lược giải:
1. Định danh và giải nghĩa tên kinh.
2. Nội dung kinh Lăng Nghiêm
A.- PHẦN DUYÊN KHỞI
Người đến đô thành lạ, nếu chẳng có bản đồ, thì không sao khỏi lầm đường lạc nẻo. Người đi trong biển khơi dịu-vợi, sóng dồi gió dập, lênh đênh giữa biển, nếu không có kim chỉ-nam, thì không dễ vượt qua mấy vạn trùng dương, trở về xứ sở. Người đi đánh giặc, nếu không có binh thơ đồ trận, không hiểu chiến thuật, chiến lược, thì không sao thắng được giặc, đem trở lại trật tự an ninh cho nước nhà, và giữ gìn non sông cẩm tú. Kẻ làm thợ nếu chẳng có mực thước, thì không sao làm thành món đồ có giá trị được.
Người tu hành cũng thế, nếu không hiểu được lối thắng, khúc quanh, chỗ đèo ải gay go, nơi hố hầm nguy hiểm trong đường lối tu hành, lớp lang chứng đạo, thì không sao khỏi lạc vào nẻo tà, sa nơi ác đạo.
Kinh-Lăng-Nghiêm là một bộ kinh quý báu vô cùng, chỉ đường lối tu hành một cách rành mạch, nào là giáo, lý, hạnh, quả đều rõ ràng. Người tu phải trải qua bao nhiêu địa vị, trong khi tu gặp những đều nguy hiểm thế nào, mà phải làm sao mới tránh khỏi những điều nguy-hiểm ấy, thì trong Kinh-Lăng-Nghiêm dạy hết sức rõ ràng.
Nói đến Kinh-Lăng-Nghiêm, hàng Phật tử ai chẳng nghe tiếng là một bộ kinh Đại-thừa, vừa hay nhất, mà cũng vừa quý nhất. Người tu hành hiểu được Kinh-Lăng-Nghiêm, chẳng khác nào người bộ hành có bản đồ, kẻ thủy thủ có kim chỉ nam, người thợ có dây mực, cây thước, kẻ chiến sỹ có binh thư đồ trận.
Vì Kinh-Lăng-Nghiêm quý giá như thế, nên thuở xưa các vị vua Ấn Độ cho là một quốc bảo, giữ gìn nghiêm ngặt không cho truyền bá ra ngoài. Trong lúc ấy bên Tàu, có Ngài Thiên-thai Trí-giả Đại-sư, được nghe Kinh-Lăng-Nghiêm quý báu như vậy, nên mỗi ngày hai lần sớm chiều xây mặt về phía Tây (Ấn Độ) quỳ lạy cầu khẩn cho Kinh-Lăng-Nghiêm được sớm truyền bá qua Tàu, để lợi ích quần-sanh.
Cách 100 năm sau, có Ngài Bát-thích-Mật-đế , người Ấn Độ, đã nhiều lần tìm cách đem Kinh-Lăng-Nghiêm đến truyền bá tại Trung Hoa, nhưng không kết quả, vì luật nước nghiêm cấm, kiểm soát rất chặt chẽ.
Đến lần cuối cùng, Ngài viết kinh trong tấm lụa mỏng, rồi cuốn lại, xẻ thịt bắp vế nhét vào, băng lại làm như người có ghẻ, mới đem ra được khỏi nước.
Chúng ta nên nhớ tưởng lại kỳ-công "Vị pháp vong xu" của Ngài Bát-Thích-Mật-Đế. Thử nghĩ: Một cây cỏ cắt vào da còn đau; một mụt ghẻ con, còn biết nhức; huống chi xẻ một đường dài nơi bắp thịt, nhét cho được một cuốn lụa con, trải qua bao nhiêu ngày, từ Ấn Độ sang đến Trung Hoa. Nếu không may bị tiết lộ thì phải tử hình. Như thế chúng ta đủ thấy sự quý báu của Kinh-Lăng-Nghiêm là dường nào! tâm vì đạo quên mình của Bồ Tát Bát-Thích-Mật-Đế đáng cho chúng sanh trọn đời bái phục.
Khi Ngài Bát-Thích-Mật-Đế đem Kinh-Lăng-Nghiêm này qua Tàu, đến đất Nam-thuyên, gặp quan Thừa-tướng tên Phòng-dung, là bậc bác học uyên thâm, lại có lòng mộ Phật, nên Ngài trình bày với Thừa-tướng, về giá trị của Kinh-Lăng-Nghiêm mà Ngài đã huyền diệu sinh mang đến.
Quan Thừa-tướng Phòng-Dung nghe nói rồi hết sức mừng rỡ, cho là đặng một vật báu chưa từng có. Nhưng khi đem cuốn lụa ra thì, vì bị máu mũ bám vào lâu ngày, nên mất cả chữ nghĩa.
Một bà có công lớn trong việc này, là Phu-nhân của Thừa-tướng Phòng-Dung. Bà đem cuốn lụa ấy nấu với một chất hóa học, thì máu mũ đều theo nước mà tan đi, chỉ lưu lại các nét mực, nên còn thấy để phiên dịch.
Quan Thừa-tướng thỉnh Ngài Bát-Thích-Mật-Đế dịch chữ Phạn ra chữ Tàu. Ngài Di-Già-Thích-Ca dịch từ ngữ, còn quan Thừa-tướng nhuận-sắc. Bởi thế nên Kinh-Lăng-Nghiêm chẳng những nghĩa lý rất hay, mà văn chương còn tuyệt diệu! Từ xưa các học giả, không những trong đạo Phật, mà cả đạo nho, các đại gia văn chương, một phen xem đến Kinh-Lăng-Nghiêm, đều kính phục và vô cùng khen ngợi cái nghĩa lý cao siêu, và văn chương tuyệt diệu của kinh.
B.- PHẦN CHÁNH ĐỀ
I.- NGUYÊN NHÂN PHẬT NÓI KINH LĂNG NGHIÊM
Theo lệ thường, mỗi năm đến ngày rằm tháng bảy, là ngày mãn hạ, chư Tăng cùng trong tự tứ, để rửa sạch những hành vi lỗi-lầm và những tưởng không tốt, cho giới thể được thanh tịnh, vì trong ba tháng kiết hạ an cư, chư Tăng đều thúc liễm thân tâm, trau giồi giới hạnh, tích công lũy đức, nên đến ngày mãn hạ, các hàng Phật tử cư sĩ đều đua nhau sắm đủ các món trai diên, thỉnh chư tăng đến cúng dường, để gieo trồng cội phúc.
Hôm ấy, nhằm ngày húy nhựt của Tiên-Hoàng, nên vua Ba-Tư-Nặc sắm đủ các món trân tu mỹ vị rất linh đình, rồi chính vua thân hành đến rước Phật và chư Tăng về cúng dường.
Cũng hôm ấy, các hàng trưởng giả, cư sĩ đều sắm đủ thức cơm chay, cung thỉnh chư Tăng đến cúng dường. Phật bảo Ngài Văn-thù chia ban, để đi đến từng nhà thọ cúng.
Trong lúc ấy, ông A-nan ví đã chịu người thỉnh riêng trước, nên trở về chẳng kịp để dự vào hàng chúng Tăng thọ cúng .
Ông mang bình bát đi vào thành, oai nghi tề chỉnh, bộ điệu chậm rãi, qua từng nhà một để khất thực. Với tâm bình đẳng, ông muốn làm phước điền cho tất cả mọi người, không phân biệt bậc quý phái hay hạng bình dân. Ông chỉ mong gặp những người chưa biết làm phước, hôm nay phát tâm cúng dường, để họ được ương trồng hạt giống lành, đặng ngày sau hưởng quả.
Vì lòng từ bi bình đẳng không lựa chọn, nên ông tuần tự trải qua các xóm làng. Không may ông gặp nhà tín-nữ ngoại đạo, tên Ma-Đăng-Già, dùng phép huyễn thuật là thần chú của Ta-Tỳ-Ca-La Tiên Phạm-thiên, bắt vào phòng, dùng đủ lời dịu ngọt, vuốt ve mơn trớn, ép uổng về tình duyên!....
A-nan bị nạn, hết sức buồn rầu! Ông chắp tay niệm Phật, hướng về Đức Chí-tôn cầu cứu ! ...Phật biết A-nan bị nạn, nên khi thọ trai xong không kịp thuyết pháp, liền trở về tịnh xá ngồi kiết-già, trên đảnh phóng hào quang, hào quang ấy có ngàn cánh, trên hoa sen có đức Hóa Phật ngồi kiết-già, nói thần chú Lăng-Nghiêm (mỗi buổi khuya các chùa đều tụng) .
Phật bảo Ngài Văn-thù đem thần chú ấy đi đến chỗ nàng Ma-Đăng-Già, để phá trừ tà chú, cứu nạn cho A-nan.
II.- A-NAN CẦU PHẬT DẠY PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH LẦN THỨ NHỨT
Khi ông A-nan được thoát nạn, về đến chỗ Phật, cúi đầu kính lạy, buồn tủi, khóc than và bạch Phật rằng:
-Bạch Thế Tôn! Con từ hồi nào đến giờ có lòng ỷ lại: Con là em Phật, được Phật thương yêu, chắc chắn Phật sẽ ban cho con thần thông trí huệ, hay đạo quả Bồ-đề, nên chỉ lo học rộng nghe nhiều, chẳng cần tu niệm, không ngờ ai tu nấy chứng, mặc dù con là em của Phật, nếu không tu, thì cũng bị đọa như ai; học nhiều mà không tu, thì cũng chẳng có ích gì! Cúi xin Phật rủ lòng từ bi, chỉ dạy cho con phương pháp nào mà mười phương các Đức Phật tu hành đều được thành chứng quả?.
III.- PHẦN LƯỢC GIẢI
1.-ĐỊNH NGHĨA VÀ GIẢI NGHĨA TÊN KINH
Khi đó Phật an ủi A-nan và hứa sẽ dạy phương pháp tu hành để thành đạo chứng quả, là Kinh-Lăng-Nghiêm. Kinh này đọc cho đủ là:
"Kinh Đại Phật Đảnh, Như-Lai Mật Nhơn, Tu Chứng Liễu Nghĩa, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh, Thủ Lăng-Nghiêm"; gọi tắt là "kinh Thủ-Lăng-Nghiêm" tức là kinh nói về chơn tâm.
a.- Vì kinh này rất quý báu, đã ít có mà lại khó gặp, hàng Tiểu-thừa Thinh -văn và quyền-thừa Bồ Tát không thể thấu suốt được, nên dụ như cái tướng "Vô kiết đảnh" của Phật. Vì tướng này rất quý báu và khó thấy, hàng phàm phu và Nhị-thừa không thể thấy được.
b.- Mười phương các Đức Phật đều y theo kinh này mà làm nhơn tu địa hành mà được thành đạo chứng quả, nên gọi là "Như Lai Mật Nhơn".
c.- Y theo kinh này mà tu và chứng thì lối tu chứng ấy mới được là rốt ráo, nên gọi rằng "Tu Chứng Liễu Nghĩa".
d.- Các vị Bồ Tát tu pháp lục độ vạn hạnh đều y theo kinh này, nên kinh nầy cũng gọi là "Chư Bồ Tát Vạn Hạnh".
đ.- Tóm lại là "Thủ Lăng Nghiêm", Tàu dịch là "Đại định kiên cố". Nghĩa là cái bản thể chơn tâm sẳn có của tất cả chúng sanh và chư Phật, nó bao trùm khắp cả vũ trụ, nên gọi là "Đại". Tâm ấy thường tịch tịnh không vọng-động nên gọi rằng "Định". Nó không bị thời gian thay đổi, hay không gian chuyển dời, thấu xưa suốt nay, bao giờ cũng vẫn thường như thế, ở nơi bực thánh không thêm, tại phàm cũng không bớt, như như bất động, nên gọi rằng "Kiên cố".
Chữ "Kinh" theo nghĩa hẹp là đường chỉ xuôi, tức là đường canh trong tấm vải. Tấm vải nhờ có đường canh xâu kết lại các chỉ ngang, mới thành một tấm vải.
Còn theo nghĩa rộng, chữ "Kinh" là xâu tóm các lời lẽ và nghĩa lý của Thánh-hiền làm thành một quyển hay một bộ.
Trong đạo Phật hay ngoài đời đều có kinh điển. Song kinh Phật có thêm chữ "khế" nên khác hơn kinh sách ở thế gian.
Chữ "khế" nghĩa là hợp:
a.- Hợp căn cơ trình độ của chúng sanh.
b.- Hợp chân lý.
Chữ kinh có nghĩa "trường pháp", là một chân lý không thay đổi: quá khứ Phật nói pháp như vậy, hiện tại Phật cũng nói pháp như vậy và vị lai Phật ra đời cũng nói pháp như vậy mà thôi, nên gọi là "thường pháp".
Nói một cách xác thật hơn:
"Kinh này chính là tâm của chúng ta".
a.- Chúng ta sẳn có bản thể chơn tâm thanh tịnh và như như bất động, thế là nơi ta có "Thủ Lăng-Nghiêm" .
b.- Y theo chơn tâm này mà khởi tu lục độ muôn hạnh của Bồ Tát, thì chính là nơi ta có "Chư Bồ Tát vạn hạnh".
c.- Y theo chơn tâm mà tu, và cũng y theo chơn tâm này mà chứng, tu chứng như thế mới là rốt ráo, nên gọi là "tu chứng liễu nghĩa".
d.- Chúng ta y chơn tâm này làm nhân địa tu hành, sẽ được thành Phật, nên gọi là "Như-lai mật nhơn".
đ.- Chơn tâm này rất quý báu, những hàng phàm phu , Tiểu-thừa và quyền thừa Bồ Tát không ngộ nhập được, nên dụ như "vô kiến đảnh tướng" của Phật. Chơn tâm chúng ta bao trùm cả vũ trụ, muôn sự muôn vật không ngoài chơn tâm ta, đó là nghĩa chữ "kinh".
Mười chính chữ đầu đề của kinh này: "Đại Phật đảnh, Như-lai mật nhơn, tu chứng liễu nghĩa, chư Bồ Tát vạn hạnh, Thủ Lăng-Nghiêm", đã bao hàm toàn bộ kinh, nào là giáo, lý, hạnh, quả, thể đại, tướng đại và dụng đại, nhơn địa tu chứng đều trùm cả, mà rốt cuộc chỉ ở nơi tự tâm chúng ta sẳn đủ. Bởi ngộ được lý này, nên đức Lục-tổ Huệ-năng nói rằng:
Không ngờ tâm mình vốn sẳn thanh tịnh
Không ngờ tâm mình vốn không sanh diệt
Không ngờ tâm mình sẳn đủ các pháp
Không ngờ tâm mình vốn không lay động
Không ngờ tâm mình hay sanh muôn pháp.
Đọc đề mục kinh chỉ có 19 chữ, chúng ta thấy đã vui thú rồi, vì chính nơi ta sẳn có kinh "Đại Phật đảnh, Như-lai mật nhơn, tu chứng liễu nghĩa, chư Bồ Tát vạn hạnh, thủ Lăng-Nghiêm". Chỉ vì chúng ta mê muội nên chẳng nhận được kinh Lăng Nghiêm của mình. Song nó cũng không mất, khi ngộ được thì sẽ thành Phật.
2.- NỘI DUNG KINH LĂNG NGHIÊM
Nội dung của kinh Lăng-Nghiêm là Phật chỉ dạy cho chúng ta ngộ được chơn tâm. Chúng ta vì không ngộ được chơn tâm nên phải vĩnh kiếp làm chúng sanh, trầm luân trong biển sanh tử, chịu không biết bao nhiêu khổ sở. Còn như Phật thoát ly sanh tử luân hồi, được tự do giải thoát, thần thông tự tại, trí huệ vô ngại v.v....đều do các Ngài đã ngộ chơn tâm, nên mới được như thế.
Nói cho dể hiểu: Phật với chúng sanh vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng các Ngài đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy, nên mới thành Phật. Trái lại, chúng sanh vì mê muội thể tánh chơn tâm, nên phải bị sanh tử luân hồi. Nếu chúng sanh giác ngộ chơn tâm, thì sẽ được như Phật.
Ông A-nan cầu Phật chỉ dạy phương pháp nào mà mười phương các Đức Phật đã tu hành và đều được chứng quả, thì Phật chỉ dạy, phải ngộ "Chơn tâm" mà thôi. Nếu ngộ được chơn tâm này thì thành Phật. Ngộ được chơn tâm, như người còn ngủ chiêm bao. Đây là phương pháp duy nhứt mà mười phương chư Phật tu hành đã được thành đạo chứng quả.
Bài Thứ Hai
BẢY ĐOẠN PHẬT HỎI VỀ TÂM
I.- A-nan chấp tâm ở trong thân
II.- A-nan chấp tâm ở ngoài thân
III.- A-nan chấp tâm ẩn trong con mắt
IV.- A-nan chấp lại tâm ở trong thân
V.- A-nan chấp tâm tùy chỗ hòa hợp mà có
VI.- A-nan chấp tâm ở chính giữa
VII.- A-nan chấp "không trước" làm tâm
BẢY ĐOẠN PHẬT HỎI VỀ TÂM
Trước khi muốn chỉ chơn tâm, Phật gạn hỏi cái vọng tâm. Khi đã hiểu vọng tâm rồi, thì về sau Phật chỉ cái chơn tâm mới khỏi lầm. Cũng như người, trước phân biệt được thau, đồng và vàng giả rồi, thì về sau chỉ đến vành thiệt, họ mới nhận được chắc chắn, nên trước hỏi về cái tâm.
Phật kêu A-Nan hỏi rằng;-trong giáo pháp ta, ông ngưỡng mộ cái gì mà phát tâm xuất gia?
A-nan thưa: -Vì thấy Phật có 32 tướng tốt đẹp lạ thường, con sanh lòng hâm mộ và phát tâm xuất gia.
Phật hỏi: -Ông nói: "Vì thấy 32 tướng tốt của Phật, sanh lòng hâm mộ"; vậy ông lấy cái gì để thấy, và lấy cái gì để hâm mộ?
A-Nan thưa: -Con lấy mắt để thấy và dùng tâm hâm mộ.
Phật hỏi: -Ông nói: "lấy con mắt để thấy và cái tâm hâm mộ", vậy ông có biết cái tâm và con mắt ở chỗ nào không?
Ông từ hồi nào đến giờ, nhiều kiếp sanh tử luân hồi, cũng vì tâm và mắt! Nếu ông không biết nó ở chỗ nào, thì không bao giờ hàng phục được phiền não và trần lao.
Cũng như vị quốc vương, bị giặc đến xâm chiếm, đem binh dẹp trừ, nếu không biết giặc trú ngụ ở chỗ nào thì không bao giờ dẹp được giặc.
I.-A-NAN CHẤP TÂM TRONG THÂN
A-Nan thưa: -Bạch ThếTôn, không những một mình con hiểu, mà tất cả chúng sanh cũng đều cho "con mắt ở trên mặt, còn tâm ở trong thân".
PHẬT BÁC:
Phật hỏi: -Ông ngồi trong giảng đường này, trước hết ông thấy cái gì? Và vì sao ông thấy được cây cối ngoài vườn?
A-Nan thưa: -Bạch Thế Tôn, con ngồi trong giảng đường, trước thấy Phật cùng chư tăng, và nhờ mở các cửa, nên con nhìn ra ngoài, thấy được cây cối, cảnh vật bên ngoài.
Phật hỏi: -Có ai ngồi trong nhà, không thấy các vật trong nhà, mà lại thấy được cảnh vật bên ngoài không?
A-Nan thưa: -Bạch Thế Tôn, người ngồi trong nhà, mà không thấy các vật trong nhà, lại thấy cảnh vật bên ngoài là không có lý.
Phật nói: -Tâm ông cũng thế, nếu thật ở trong thân ông, thì trước hết nó phải thấy tim, gan, ruột, phổi hoặc móng tay ra, tóc dài, gân chuyển, mạch động ở trong, rồi sau do mở mắt, ông mới thấy đặng các cảnh vật bên ngoài. Cũng như người ngồi trong giảng đường này, trước hết phải thấy Phật cùng chúng tăng và những vật trong giảng đường, rồi sau nhìn ra ngoài, mới thấy núi sông cây rừng v.v..
Vậy có ai trước thấy tim, gan, ruột, phổi ở trong thân, rồi sau mới thấy các vật ở bên ngoài không ? Nếu không, thì ông nói: "tâm ở ngoài thân" là phi lý.
II.- A-NAN CHẤP TÂM Ở NGOÀI THÂN
A Nan bạch Phật: Bạch Thế Tôn, cứ theo lý luận trên thì con hiểu: Tâm ở ngoài thân. Vì nếu ở trong thân, sao không thấy được các vật ở bên trong, mà chỉ thấy cảnh vật bên ngoài. Vậy nên con biết tâm ở ngoài thân. Cũng như cái đèn đốt ngoài nhà, nên chẳng sáng được trong nhà. Nghĩa này đúng rồi, chắc không còn lầm lạc nữa.
PHẬT BÁC:
Phật hỏi A-nan: Cái tâm của ông, nếu ở ngoài thân, thì thân và tâm ông không dính dấp với nhau. Vậy trong lúc tâm biết, thân phải không biết; còn khi thân biết, thì tâm phải không biết.
Cũng như ta với các thầy Tỳ kheo, vì thân thể khác nhau, nên khi ta thọ trai, các thầy không no được .
Vậy ông thử xem cánh tay của ta đây, trong lúc mắt (thân) ông vừa thấy, tâm ông có biết liền không?
A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn, trong lúc con mắt vừa thấy, thì tâm con liền phân biệt .
Phật hỏi: Nếu mắt ông vừa thấy, tâm ông liền biết, thì thân ông và tâm không thể rời nhau được, như thế thì ông nói: "Tâm ở ngoài thân" cũng không phải.
III.- A-NAN CHẤP TÂM ẨN TRONG CON MẮT
A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn, theo lời Phật bác: "tâm không phải ở trong thân, vì nó chẳng thấy được bên trong; cũng không phải ở ngoài thân, vì mắt vừa thấy, tâm liền biết, rõ ràng tâm thân không rời nhau".
Cứ theo lý luận này, thì con hiểu: Tâm núp trong con mắt; cũng như con mắt của người mang kiến, nên chỉ thấy các cảnh vật bên ngoài, mà không thấy được vật bên trong.
PHẬT BÁC
Phật hỏi A-nan: Nếu tâm con núp trong con mắt, cũng như con mắt người mang kiến; vậy tôi hỏi: "Người mang kiến trong khi họ thấy cảnh vật, họ có thấy được cái kiến mang đó không?"
A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn, thấy được .
Phật hỏi: Nếu tâm ông cũng như con mắt người mang kiến, thì vậy sao người mang kiến có thể thấy được cái kiến mang, còn tâm ông sao không thấy được con mắt của ông?
Nếu tâm ông thấy được con mắt của ông, thì con mắt của ông thành ra cảnh bị thấy, nó phải ở ngoài thân ông mới phải.
Nếu thân, tâm ngoài nhau, thì làm sao mắt ông vừa thấy, tâm ông liền phân biệt được?
Nếu tâm ông không thấy được con mắt của ông, thì sao ông tỷ dụ như con mắt người mang kiến?
Thế nên ông nói: "Tâm núp trong con mắt, như con mắt người mang kiến núp sau cái kiến", cũng không phải.
IV.- ÔNG ANAN CHẤP TRỞ LẠI, TÂM Ở TRONG THÂN
A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn, bây giờ con nghĩ: Nhắm mắt thấy tối, là tâm thấy trong thân (gan ruột); nhờ cửu khiếu, thất huyệt (các giác quan) trống hở, nên mở mắt thấy sáng là tâm thấy các cảnh vật ngoài thân. Chẳng biết nghĩa này có đúng không?
PHẬT BÁC
Phật hỏi A-nan: Ông nói: "Nhắm mắt thấy tối là thấy trong thân"; vậy thì khi ông thấy tối, cảnh tối đó có đối trước mắt ông hay không?
Nếu cái tối không đối trước mắt , thì không thành cái nghĩa thấy. Còn có đối trước mắt, thì thấy tối là thấy trước, sao ông lại nói thấy trong?
Nếu ông cho thấy tối là thấy trong thân (gan ruột) thì khi ở trong nhà tối không có ánh sáng, ông thấy tối đó, cũng là thấy gan ruột của ông sao?
Lại nữa, nếu nhắm mắt thấy tối, ông cho là thấy trong thân, mở mắt thấy sáng là thấy ngoài thân, vậy sao ông không thấy được cái mặt?
Cái mặt ở ngoài, ông mở mắt còn không thấy, thì khi nhắm mắt thấy tối, làm sao chắc là thấy trong thân?
Nếu ông thấy được cái mặt ông, thì con mắt với tâm hiểu biết của ông, phải ở ngoài thân ông.
Nếu tâm và mắt ở ngoài thân, thì nó không phải là tâm mắt của ông rồi.
Nếu ông cho tâm, mắt (ngoài thân ông) đó cũng là ông, vậy thì nay ta thấy được mặt ông, thế thì ta đây cũng là tâm, mắt của ông sao?
Lại nữa, trong lúc con mắt ông biết, thì thân ông cũng phải không biết, khi thân ông biết, thì con mắt ông phải không biết (vì ông chấp nó rời nhau).
Nếu ông cho cả hai đều biết, thì một mình ông phải có hai cái biết (tâm), vậy khi tu hành chứng quả, ông sẽ thành hai vị Phật sao?
Thế nên phải biết: Ông nói: "thấy tối là thấy trong thân" cũng không phải.
V.- A NAN CHẤP TÂM TÙY CHỒ HÒA HIỆP MÀ CÓ.
A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn, con thường nghe Phật dạy tứ chúng: "Do tâm sanh, nên các pháp mới sanh. do các pháp sanh, cho nên tâm mới sanh". nay con suy nghĩ, thì cái "suy nghĩ" đó là tâm của con; tùy hòa hiệp chỗ nào, thì tâm liền theo đó mà có, không phải ở trong, ngoài và chính giữa.
PHẬT BÁC
Phật hỏi Anan: Ông nói: "tùy hòa hiệp chổ nào, thì tâm liền theo đó mà có"; như thế thì cái tâm của ông không có thật thể.
Nếu tâm ông không có hình thể (tức là không có) thì lấy cái gì mà hòa hiệp? Còn nó có hình thể, thì ông thử lấy tay mặt đánh qua tay trái, ông liền biết đau. Vậy cái tâm biết đau này, là từ trong thân chạy ra hay từ bên ngoài chạy vào?
Nếu ông nói: "Nó từ trong thân chạy ra", thì ttrước hết nó phải thấy gan ruột trong thân của ông. Còn nếu nó từ ngoài hư không chạy vào, thì trước hết nó phải thấy cái mặt của ông.
A-Nan thưa: Con mắt thì thấy, còn cái tâm thì biết; Phật nói: "cái tâm thấy", nghĩa đó không phải.
Phật hỏi: Nếu con mắt thấy thì những người chết, con mắt vẫn còn, sao họ không thất vật?
Nếu người chết, mà vẫn còn thấy vật, thì sao gọi là người chết?
Lại nữa, nếu cái tâm hiểu biết của ông có thật thể, thì có một thể hay nhiều thể, ở khắp cả thân ông, hay không khắp cả thân?
Nếu tâm ông có một thể, và ở khắp cả thân, thì khi ông lấy tay đánh thử một nơi trên thân ông, đáng lẽ ra thân đều biết đau hết, vì tâm ở khắp cả thân và đồng một thể.
Nếu cả thân đều biết đau, thì cái đau đó lẽ ra không có ở nhứt định chổ nào.
Nếu có đau có chổ ở nhứt định, thì ông nói: "cái tâm một thể và ở khắp cả thân" cũng không phải. Còn nói "tâm ông có nhiều thể", thì thành ra nhiều người; vậy cái nào tâm của ông?
Nếu tâm ông không ở khắp thân thể, vậy ông đồng thời vừa đụng trên đầu, và cũng vừa đụng dưới chân, khi ấy nếu đầu biết đau, thì chân phải không biết, còn chân biết đau, thì đầu phải không biết.
Nhưng thật tế thì, đầu và chân của ông cả hai đều biết đau.
Thế nên ông nói: "tùy hòa hiệp chổ nào, thì tâm thì theo đó mà có", cũng không phải .
VI.- A-NAN CHẤP TÂM Ở CHÍNH GIỮA
A-nan bạch Phật: Con nghe Phật cùng với ngài Văn Thù...khi luận về "thật tướng" (chơn tâm), Phật dạy rằng: "Tâm chẳng ở trong và cũng chẳng ở ngoài ".
Nay con suy nghĩ: Nếu tâm ở trong thân, sao chẳng biết được bên trong? Còn nói tâm ở ngoài , thì sao tâm lại biết nhau? Như thế thì "tâm" chắc ở chính giữa.
PHẬT BÁC
Phật hỏi: Ông nói "Tâm ở chính giữa", vậy cái "chính giữa"; còn ở chính giữa thân, thì đồng thời với ở trong thân, như đã nói trước. Nghĩa là: tâm phải thấy trước tim, gan, ruột, phổi ở bên trong .
Còn như ở về cảnh, thì có thể nêu (cái giữa) ra được, hay không nêu ra được?
Nếu không nêu ra được , thì đồng như không có; còn nêu ra được , thì không thể nhứt định chổ nào là chính giữa.
Vì sao? Như người lấy cái cắm chính giữa, nếu người ở phía đông thì xem thấy cây ấy cắm ở phía tây; còn người ở phía nam, thì xem thấy cây ở phía bắc.
Cái cây cắm nêu đó đã không nhứt định chổ nào là chính giữa, thì cái tâm của ông cũng phải lộn lạo không định.
A-Nan thưa: con nói "chính giữa" không phải hai chổ ấy. Như Phật thường nói: "con mắt đối với sắc trần, sanh ra nhãn thức". Một bên con mắt thì có phân biệt, một bên sắc trần lại không phân biệt, cái thức sanh chính giữa, đó là chổ của tâm ở.
Phật hỏi: Ông nói: "Tâm ông sanh chính giữa căn và trần cảnh" hay không gồm cả hai .
Nếu gồm cả hai, thì căn với cảnh lộn lạo (căn không thành căn, cảnh không thành cảnh; vì vừa biết mà cũng là không biết). Song trần cảnh thì không có tri giác, còn căn lại có tri giác, hai bên đối lập riêng khác, vậy lấy chổ nào làm giữa.
Còn như không gồm cả căn và cảnh, thì tâm không thật thể. Vậy lấy cái gì làm chính giữa?
Thế nên phải biết: Ông nói "tâm ở chính giữa" cũng không phải.
VII.- A-NAN CHẤP CÁI "KHÔNG TRƯỚC" LÀM TÂM
A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn, ngày trước con thấy khi Phật cùng với ông Đại Mục Kiền Liên. Tu Bồ Đề v.v...nói pháp, Phật có dạy rằng:
"Cái tâm hiểu biết phân biệt, không ở trong thân, không ở ngoài thân, không ở chính giữa, không ở chổ nào cả; "không dính mắc (vô trước) tất cả" đó gọi là tâm ".
Vậy nay con lấy cái "không dính mắc" đó làm tâm, chẳng biết có hay được không?
PHẬT BÁC
Phật hỏi: -Ông nói: lấy cái "không dính mắc tất cả" làm tâm. Vậy tôi hỏi ông: tất cả các vật tượng trong thế gian này, nào là hư-không, thế-giới v.v...Vậy các vật tượng ấy có mà ông không dính mắc (trước) hay là không, mà ông không dính mắc?
Nếu các vật tượng ấy không có, thì cũng như lông rùa, sừng thỏ: nó đã không, thời có gì mà dính mắc.
Nếu còn có cái "không dính mắc" thì ông không thể nói rằng "không dính mắc được". Vì cái gì không có hình tướng thì không, còn cái gì có hình tướng là có. Nếu có hình tướng thì phải bị "dính mắc".
Thế nên ông nói: "không dính mắc tất cả làm tâm" cũng không phải.
LƯỢC GIẢI
Đã bảy lần Phật gạn về tâm, ông A-nan đều nói không trúng. Vậy nên biết: Nếu chưa ngộ được thể tánh chơn tâm, thì dù cho nói cách nào cũng sai cả. Chẳng khác nào mhư trong Nhiếp Đại Thừa luận có cái dụ: "kẻ mù rờ voi". Người rờ nhầm cái chân thì nói con voi như cột nhà, người rờ nhằm lỗ tai, thì nói voi như ki hốt rác, người rờ nhằm đuôi, thì nói voi như cây chổi quét nhà v.v...mặc dù rờ trúng, nhưng nói và nghĩ thế nào cũng sai cả. Phải thấy chơn tướng của con voi, thì nói mới không sai.
Chúng ta cũng nên lưu ý; trong kinh này, ngài A-nan đại diện cho chúng sanh mê lầm hiện tại, cũng như tương lai mà đứng ra thưa hỏi.
Có những đoạn ngài trình bày hoặc thưa hỏi rất thấp, là đại diện cho những chúng sanh mê lầm bực hạ căn. Có những đoạn Ngài trình bày hoặc thưa hỏi thâm thúy, là đại diện, cho những chúng sanh căn tánh bực thượng. Vậy chúng ta không nên căn cứ lời trình bày trên mặt văn tự mà phê phán trình độ của Ngài.
Bài Thứ Ba
I.- A-nan cầu Phật dạy phương pháp tu hành, lần thứ hai
II.- Phật gạn hỏi lại tâm lần thứ hai.
III.- A-nan chấp cái "Suy nghĩ phân biệt " làm tâm.
IV.- A-nan cầu Phật chỉ dạy phương pháp tu hành, lần thứ ba.
V.- Phật chỉ tâm lần thứ nhứt.
VI.- Phật chỉ cái thấy làm tâm, không phải con mắt .
VII.- Phật chỉ tâm lần thứ hai
VII.- A-nan cầu Phật chỉ dạy ở nơi thân này cái nào "chơn" và cái nào "vọng"
I.- Vua Ba Tư nặc đứng dậy hỏi Phật .
X.- Phật chỉ tâm lần thứ ba
XI.- Phật chỉ "cái thấy" không sanh diệt
I.- A-NAN CẦU PHẬT DẠY PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH LẦN THỨ HAI.
Ông A-nan đã bảy lần chỉ tâm đều không trúng, vì ông chấp vọng tưởng là tâm, nên bị Phật bác cả, lần thứ hai ông đứng dậy chắp tay kính lạy, cầu Phật chỉ dạy phương pháp tu hành để thoát ly sanh tử luân hồi.
A-nan thưa rằng: -Bạch Thế Tôn ! Con là em Phật, tuy đã xuất gia, mà vẫn còn ỷ lại lòng thương yêu của Phật chỉ lo học rộng nghe nhiều, không chuyên tu niệm, nên không chứng được đạo quả, chẳng hàng phục nổi tà chú của ngoại dạo Ta-Tỳ-Ca-La; trái lại, còn bị Ma Đăng Già bắt vào phòng dâm...phải nhờ Phật cứu độ. Vậy cúi xin Phật từ bi chỉ dạy cho con phương pháp tu hành, để phá trừ ác chiến và chứng thành đạo quả.
Thưa thỉnh xong, A-nan và đại chúng kính cẩn và trông chờ lời Phật chỉ dạy.
II.- PHẬT GẠN HỎI TÂN LẦN THỨ HAI.
Lúc bấy giờ Phật gạn hỏi lại cái "tâm" lần thứ hai, và bảo ông A-nan phải phân biệt rành rõ cái nào là chơn tâm, và cái nào là vọng tâm.
Phật dạy: Ông nay muốn đặng đạo vô thượng Bồ đề, thì điều cần nhứt là phải hiểu rõ hai món căn bản:
Một căn bản của sanh tử luân hồi là vọng tâm.
Một căn bản của Bồ đề, Niết bàn, là chơn tâm.
Nếu ông nhận lầm căn bản của sanh tử (vọng tâm) làm nhơn tu hành, thì không bao giờ giải thoát được. Cũng như người nhận giặc làm con, thì chỉ thêm bị phá hoại gia sản của mình mà thôi. Và cũng như người nấu cát làm cơm, dầu trải bao nhiêu năm cũng chẳng thành cơm được.
Vậy nay ông muốn biết đường lối tu hành để ra khỏi sanh tử luân hồi, thì ông hãy nghe tôi hỏi đây:
Phật liền đưa bàn tay, co lại năm ngón và hỏi ông A-nan rằng: Ông có thấy không?
A-nan đáp: Bạch Thế Tôn, thấy.
Phật hỏi: -Ông thấy cái gì?
A-nan đáp: Con thấy Phật đưa bàn tay co năm ngón lại.
Phật hỏi: Ông lấy cái gì để thấy và lấy cái gì làm tâm?
III.- A-NAN CHẤP CÁI "SUY NGHĨ PHÂN BIỆT" LÀM TÂM
A-nan thưa: con lấy "mắt" để thấy và cái "biết suy nghĩ phân biệt" làm tâm .
Phật quở: Dốt lắm, A-nan! cái đó không phải là tâm của ông.
LƯỢC GIẢI
Chúng ta nên lưa ý: Thông thường ai cũng đều có cái "suy nghĩ phân biệt" là tâm của mình, mà Phật lại nói "không phải tâm". Vậy chúng ta cần phải chính chắn suy xét chổ đó.
* * *
A-nan hoảng hốt, đứng dậy thưa Phật: Bạch Thế Tôn, cái "suy nghĩ, phân biệt" này, nếu không phải là tâm của con thì gọi nó là cái gì?
Phật dạy: nó là "vọng tưởng" (vọng tâm). bởi các ông từ hồi nào đến giờ, lầm nhận "vọng tưởng" làm "chơn tâm", cho nên nhiều kiếp trầm luân. Như người nhận giặc làm con, nên bị giặc phá hại.
A-nan thưa: Bạch Thế Tôn, con vì thương Phật nên mới xuất gia, thì con mới dùng cái tâm này mà thương Phật. Con phụng thờ các đức Phật trong mười phương và làm tất cả các điều công đức, cũng dùng cái tâm này. Dầu cho con có làm các điều tội lỗi, hủy báng Phật pháp, đọa vào địa ngục đi nữa, thì con cũng dùng cái tâm này. Ngày hôm nay Phật nói "nó" không phải tâm của con, như thế thành như con không có tâm; nếu không có tâm, thì con đồng như cây, đá rồi! Cúi xin đức Thế tôn từ bi chỉ giáo.
Phật dạy rằng: này A-nan nếu ông chấp cái "suy nghĩ, phân biệt" là tâm của ông, thì khi rời cảnh vật hiện tiền, cái tâm "hiểu biết, phân biệt" ấy, cũng vẫn còn, thế mới phải là tâm của ông. Nếu rời cảnh vật hiện tiền, mà tâm hiểu biết phân biệt ấy mất đi, thì không phải là chơn tâm của ông rồi.
Dầu cho ông diệt hết năm tri giác bên ngoài là thấy, nghe, hay, biết (năm giác quan), chỉ còn lưu lại cái "thầm thầm phân biệt" bên trong (thức thứ sáu) thì đó cũng là cái vọng tưởng phân biệt (ý thức thứ sáu) bóng dáng pháp trần không phải là chơn tâm của ông.
Này A-nan, tôi không bắt buộc ông phải chấp cái "suy nghĩ phân biệt" đó là không phải tâm của ông; tôi chỉ bảo ông nên chính chắn suy xét: nếu rời cảnh vật hiện tiền, mà cái "suy nghĩ phân biệt" này vẫn còn, thì mới phải thật là chơn tâm của ông.
Còn nếu rời khỏi cảnh vật hiện tiền, mà phải "suy nghĩ phân biệt" này cũng mất luôn đi, thì rõ ràng nó là cái "vọng tưởng phân biệt" (vọng tâm) bóng dáng của sáu trần, chớ không phải là "chân tâm thường trụ" của ông vậy.
Nếu ông nhận cái "hư vọng phân biệt sanh diệt" (vọng tưởng) nay làm tâm của ông, thì khi cảnh vật hiện tiền qua rồi, tâm ấy cũng theo cảnh vật mà diệt đi. Lúc ấy thành ra ông không có tâm rồi. Nếu không có tâm, thì ông lấy cái gì để tu hành, và thành đạo chứng quả.
Ông phải biết rằng: trong thế gian tất cả người tu hành, không được thành đạo, đều do chấp lầm cái "vọng tưởng sanh diệt" (vọng tâm) này làm chân thật (chơn tâm).
Chính ông ngày nay cũng thế, nên tuy học nhiều mà không được quả Thánh.
IV.- A-NAN CẦU PHẬT CHỈ DẠY PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH LẦN THỨ BA.
A-nan cùng Đại chúng, nghe Phật nói như vậy, đều ngẫn ngơ và im lặng.
Lúc bấy giờ ông A-nan cúi đầu lạy Phật, quỳ gối chắp tay vừa khóc lóc, vừa bạch Phật rằng: Con từ khi xuất gia theo Phật đến nay, vì ỷ lại là em của Phật, tin chắc sẽ nhờ oai thần Phật ban cho đạo quả, chẳng cần tu tránh cực nhọc; không ngờ ai tu nấy chứng, không thể thay thế cho nhau được.
Hôm nay con mất "bản tâm" đi rồi thân tuy xuất gia mà tâm chẳng vào đạo, chẳng khác nào đứa cùng sanh tử bỏ cha trốn đi.
Nay con mới biết học nhiều mà không tu cũng như người không học mà cũng như người nói đến đủ các thức ăn, rốt cuộc trong bụng vẫn đói.
Bạch Thế Tôn, chúng con vì hai chứng phiền não và sở tri ràng buộc, nên không ngộ được chơn tâm. Cúi xin đức Thế Tôn thương xót kẻ bần cùng, chỉ dạy cho con phương pháp tu hành, để phát minh được tâm tánh.
V.- PHẬT CHỈ CÁI "THẤY" THƯỜNG CÒN
Khi ấy Phật kêu A-nan, dạy rằng: -Vừa rồi ông nói "thấy năm ngón tay của ta con mắt nắm lại". Vậy thì sao có nắm tay? Và nhờ cái gì mà có cái thấy?
A-nan thưa: -Bạch Thế Tôn, nhơn bàn tay của Phật co lại năm ngón, nên mới có nắm tay, và nhờ con mắt cho nên mới có cái thấy.
Phật hỏi: Vậy thì "không bàn tay chẳng có ngón tay, cũng như không con mắt thời chẳng có cái thấy "; so sánh như thế có đúng không?
A-nan thưa: Bạch Thế Tôn, đúng.
Phật dạy: Không đúng hẳn! Không bàn tay thì không có nắm tay thì phải, không con mắt chẳng phải cái "thấy" không có.
Ông nên ra ngoài đường hỏi những người mù mắt: "các người có thấy gì không?", thì họ đều trả lời với ông rằng: "Chỉ thấy tối đen". Như thế thì rõ ràng: Người mù không có con mắt, mà cái "thấy" cũng vẫn còn.
Đây là cái bằng chứng: Mặc dù con mắt không có, và trần cảnh đối trước có tối và sáng khác nhau, nhưng cái thấy lúc nào cũng có (nói cái thấy là đại diện cho năm giác quan).
A-nan thư: Người mù thấy tối, thì sao gọi là thấy được?
VI.- PHẬT CHỈ TÂM LẦN THỨ NHỨT
Phật hỏi A-nan: Người sáng mắt ở trong nhà tối thấy tối, cùng với người mù mắt thấy tối, vậy hai cái tối đó có khác nhau không?
A-nan thưa: -Bạch Thế Tôn ! không khác.
Phật hỏi: Nữa trong nhà tối thấy tối, nếu có người đem đèn vào, họ thấy được các vật, vậy cái đèn thấy hay con mắt thấy?
A-nan thưa: Mắt thấy chớ không phải đèn thấy.
Phật dạy: Cũng thế, người mù mắt khi lột mây rồi, thấy được cái cảnh vật, đó là tâm thấy chớ không phải mắt thấy.
Phật dạy tiếp: -Cái đèn chỉ làm cho sáng các vật, còn cái thấy là con mắt (dụ cho tâm) chớ không phải đèn (dụ con mắt). Lên một tầng nữa: con mắt chỉ làm cho tỏ rõ các vật, còn cái thấy là tâm, chớ không phải con mắt (đây là lần thứ nhứt Phật chỉ tâm).
A-nan và đại chúng nghe Phật giảng dạy như thế rồi, đều im lặng, nhưng trong tâm thật chưa hiểu, nên đều kính cẩn chắp tay, để chờ Phật chỉ dạy thêm.
LƯỢC GIẢI
Trong đoạn này, xin nói thêm tỷ dụ này cho dễ hiểu: Con mắt của người cũng như bóng đèn điện, còn cái "thấy" của người cũng như điện. Khi dây đứt (dụ dây thần kinh đứt ) bóng hư (dụ mắt mù ) thì đèn không cháy, chớ không phải điện mất (không cái thấy). Đến khi thay bóng mới nối dây lại, thì điện cháy trở lại không phải do bóng hay do dây mới có điện.
Cái "thấy" của người cũng thế: khi mắt bị mây che thì chỉ thấy tối, chớ không phải cái "thấy" mất, đến khi lột mây rồi, thì cái "thấy" hiện ra, không phải do con mắt mới có cái thấy. Đoạn này Phật chỉ rõ cái "thấy" là tâm.
* * *
VII.-PHẬT CHỈ TÂM LẦN THỨ HAI
Khi đó Phật đưa bàn tay lên, năm ngón co lại rồi mở ra và hỏi ông A-nan: -Ông có thấy cái gì không?
A-nan thưa: -Thấy Phật đưa tay lên co vào rồi mở ra.
Phật hỏi: Tự cái tay của ta co mở, hay "cái thấy" của ông co mở?
A-Nan thưa: - Tự tay Phật co mở, chứ "cái thấy" của con không co mở.
Phật khen: Phải lắm.
Phật lại phóng một đạo hào quang trên vai phía mặt của A-nan: A-Nan liền xoay đầu ngó về phía bên mặt.
Phật lại phóng hào quang trên vai phía trái của A-Nan; A-Nan xoay đầu ngó qua phía trái.
Phật hỏi: Cái đầu của ông hôm nay tại sao xoay qua lắc lại như vậy?
A-Nan thưa: vì Phật phóng hào quang trên hai vai của con, nên con xoay qua lắc lại để xem.
Phật hỏi: Vậy cái đầu của ông lắc, hay cái thấy của ông lắc?
A-Nan thưa: tự cái đầu con xoay qua lắc lại, chớ cái thấy của con không có xoay lắc.
Phật hỏi: -Cái nào động, cái nào tịnh?
A-Nan thưa: -Cái đầu của con có động và tịnh (dừng) chứ cái thấy của con không có động và tịnh.
Phật nói: Phải
Phật dạy tiếp: -Cái nào có co, có mở, có động, có tịnh, có sanh, có diệt, thì cái đó là vọng, thuộc về "khách" không phải ông. Còn cái nào không động tịnh, co mở, không sanh diệt, thì cái đó là "chơn", thuộc về "chủ" chính là ông. Như thế chơn và vọng rất rõ ràng, ông còn chưa hiểu hay sao!
Tại sao từ hồi nào đến giờ, các ông cứ nhận cái vọng-thân tứ đại giả hợp này, cho là thật "thân" của mình; cái vọng tưởng sanh-diệt này, cho là thật "tâm" của mình; cảnh vật giả tạm, cho là thật "cảnh" cảnh của mình, mà lại bỏ cái chơn tâm thường còn bất sanh bất diệt của mình sẵn có kia đi? Bởi thế nên các ông phải nhiều kiếp sanh tử luân hồi, thật là rất oan uổng!
LƯỢC GIẢI
Đoạn này Phật chỉ cái "thấy" không co mở, và không sanh, diêt, động, tịnh, đó là chơn tâm lưu lộ.
* * *
VIII. -A NAN CẦU PHẬT CHỈ DẠY Ở NƠI THÂN NÀY CÁI NÀO "CHƠN", CÁI NÀO "VỌNG".
Khi ấy A-Nan và đại chúng được nghe Phật tạm chỉ "cái thấy không động tịnh co mở là Tâm", nên tất cả đều hớn hở vui mừng, và nghĩ rằng: Từ vô thỉ đến nay, tự mình làm mất bản tâm, nhận cái vọng tưởng phân biệt theo bóng dáng của trần cảnh làm tâm, ngày hôm nay mới ngộ được Tâm mình, nên hết sức vui mừng. Cũng như đứa con nhỏ khát sữa đã lâu, nay được gặp bà từ mẫu, nên ông và đại chúng cầu Phật chỉ rõ ở nơi thân tâm hiện tiền đây, cái naò chơn thật không sanh diệt và cái nào hư vọng có sanh diệt.
IX.-VUA BA TƯ NẶC ĐỨNG DẬY HỎI TIẾP
Khi ấy vua Ba-tư nặc đứng dậy thưa Phật: -Bạch Thế Tôn, lúc trước chưa thọ giáo với Phật, con nghe phái ngoại-đạo Ca chiên diên và Tỳ la chi tử đều nói: "Thân này sau khi chết rồi mất hẳn, gọi là Niết bàn".
Hôm nay con tuy được Phật chỉ dạy, nhưng vẫn còn hồ nghi: làm sao biết rõvà chứng chắc cái tâm này không sanh diệt. Xin Phật từ bi chỉ dạy cho chúng con.
X.-PHẬT CHỈ TÂM LẦN THỨ BA
Phật hỏi: -Đại vương! Cái thân của ông hiện tại đây, nó bền chắc như ngọc kim cương, còn mãi không hư họai, hay là phải hoại diệt?
Vua đáp: -Bạch thế tôn, thân con ngày nay đây, rốt cuộc rồi cũng bị hoại diệt.
Phật hỏi: -Ông chưa chết, làm sao biết nó sẽ bị hoại diệt?
Vua đáp: -Bạch thế tôn, cái thân vô thường của con đây, tuy chưa chết, nhưng hiện tiền nó đã tàn tạ dần! ngày qua, rồi lại ngày qua! Mỗi niệm qua, qua từ sát na (tíc-tắc) không dừng!...cũng như củi đốt thành tro, cháy dần cho đến lúc tiêu tan! Vì thế nên con biết, thân này nhứt định sẽ tiêu diệt.
Phật nói: -Phải!
Phật lại hỏi: -Đại vương! Thân thể ông đâu phải tiêu diệt liền bây giờ?
Vua đáp: -Bạch thế tôn, ngày qua tháng lại, hết hạ đến đông, nó thầm già chết, cho đến ngày nay, đầu bạc răng rụng, chân lỏng gối dùn, mắt mờ tai lảng, già nua đến thế này, mà con thật không hay không biết!
Bạch thế tôn, khi con hai mươi tuổi, tuy nói rằng tuổi trẻ, thật ra nhan sắc đã già hơn khi mười tuổi. Khi ba mươi tuổi lại già hơn khi hai mươi tuổi. Cho đến ngày nay, sáu mươi hai tuổi, lại già hơn khi năm mươi tuổi.
Nó âm thầm già chết, lấy trong khoảng thời gian mười năm mà nói như vậy. Nếu chín chắn suy nghĩ, thì cái già, chết này, không phải hạn định trong khoảng mười năm hay hai mươi năm, mà thật ra, mà nó già từng năm, từng tháng, từng ngày. Nếu suy nghĩ kỷ hơn nữa, thì nó già, chết từng phút, từng giây và từng sát na (tíc tắc)! Năm nay già hơn năm rồi, tháng này già hơn tháng trước, ngày hôm nay già hơn ngày hôm qua, giờ này già hơn giờ trước. Phút này già hơn phút trước, cho đến sát na này cũng già hơn sát na trước. Thế nên con biết, thân này rốt cuộc rồi cũng tiêu diệt.
LƯỢC GIẢI
Cũng như cái đồng hồ, vì có chạy từng giây, cho nên mới qua từng phút. Bởi có đi từng phút, nên mới chỉ đến từng giờ, và ngày v.v...thân này già chết cũng thế.
* * *
Phật hỏi: -Đai vương! Ông thấy cái thân thể của ông âm thầm già chết như thế, nên ông lo buồn; vậy ở nơi thân thể sanh diệt, già chết này, ông có biết được cái gì chẳng sanh diệt già chết không?
Vua Ba Tư Nặc chắp tay cung kính thưa: -Bạch thế tôn, con thật không biết?
XI.-PHẬT CHỈ CÁI "THẤY" KHÔNG SANH DIỆT
Phật dạy rằng: -Tôi nay chỉ cho ông thấy cái không sanh diệt.
Này đại vương, khi ông mấy tuổi mới thấy được nước sông hằng?
Vua đáp: -Khi lên ba tuổi, con được mẹ bồng đến yết kiến thành tỳ bà thiên (thành trường thọ) đi ngang qua sông này, nên lúc bấy giờ , con đã thấy được sông hằng.
Phật hỏi: -Hôm nay ông thấy sông hằng, vậy cái "thấy" đó là khác không?
Vua thưa: -Khi con ba tuổi thấy sông hằng, đến lúc ba mươi tuổi và nay được sáu mươi hai tuổi thấy sông hằng cũng đều không khác.
Phật dạy: Ngày nay ông lo buồn cho thân ông già yếu, đầu bạc mặt nhăn, không được như lúc còn trẻ. Vậy nay sáu mươi hai tuổi, ông xem thấy sông hằng, cùng với khi còn trẻ thấy sông Hằng, cái "thấy" đó có già trẻ chi không?
Vua Ba tư nặc thưa: Bạch thế tôn, cái "thấy" không có già trẻ.
Phật dạy, này Đại vương thân thể mặt mày ông tuy già, vậy cái nào có già, thì cái ấy sẽ bị biến đổi ,tiêu diệt; còn cái nào không già, thì cái đó không có biến đổi tiêu diệt. Nó đã không sanh diệt, thì đâu có bị ông làm cho nó sanh tử luân hồi được, rõ ràng như thế, ông không hiểu sao mà còn dẫn lời của ngoại đạo Mạt-già-Lê nói: thân này chết rồi hoàn tòan diệt mất?
Vua cùng đại chúng nghe Phật dạy rồi, đều biết rằng: người chết rồi, là tâm bỏ thân này thọ thân khác, không phải mất hẳn. Ai nấy đều hớn hở vui mừng vì đặng lợi ích chưa từng có.
LƯỢC GIẢI
Đoạn này Phật chỉ thấy không già trẻ, sanh diệt đó là Tâm
Bài Thứ Tư
I.- A-Nan cầu Phật chỉ cái "điên đảo"
II.- Phật dẫn tỷ dụ để chỉ rõ cái "điên đảo".
III.- Phật chỉ ngay cái "điên đảo".
IV.- Phật dạy: vì mê nên có thế giới và chúng sanh.
V.-A-Nan đã hiểu được chơn tâm song chưa dám nhận.
VI.- Phật chỉ tâm lần thứ tư.
VII.- A-Nan còn nghi hỏi Phật .
VIII.- Phật chỉ tâm lần thứ năm.
IX.-Phật dạy thêm, cái thấy là tâm chớ không phải vật.
X.-A-Nan nghi cái thấy có lớn, nhỏ, đứt, nối.
XI.-Phật dạy: Trần cảnh có lớn nhỏ, cái thấy không có lớn nhỏ
I.-A-NAN CẦU PHẬT CHỈ CÁI "ĐIÊN- ĐẢO".
Khi ấy A-Nan đứng dậy lạy Phật, kính cẩn bạch rằng:
Nếu cái thấy, nghe, không sanh diệt này là "Tâm" của chúng con, tại sao trước kia đức Thế Tôn lại quở chúng con "bỏ mất chơn tâm, làm việc điên đảo"?
Cúi xin đức Như Lai mở rộng lòng từ bi chỉ dạy cho chúng con biết cái "Điên đảo" ở chỗ nào.
II.-PHẬT DẪN TỶ DỤ ĐỂ CHỈ RÕ CÁI "ĐIÊN ĐẢO".
Khi đó Phật xuôi cánh tay chỉ xuống đất, hỏi ông A-Nan rằng:
Ông thấy cánh tay của ta như thế này, là xuôi hay ngược?
A-Nan thưa: -Các người trong thế gian cho như thế là ngược; còn con thì không biết là ngược hay xuôi.
Phật lại hỏi ông A-Nan: -Các người trong thế gian cho như thế là ngược, thì họ cho như thế nào mới là xuôi?
A-Nan thưa: -Đức Như Lai đưa cánh tay lên, năm ngón chỉ thẳng lên hư không, như thế là xuôi.
Phật liền đưa tay lên, rồi kêu A-Nan mà bảo rằng: -Cũng một cánh tay này chứ không chi khác, chẳng qua chỉ đổi đầu làm đuôi, đổi đuôi làm đầu mà thôi, thế mà người thế gian, chấp thế này là ngược và thế kia là xuôi; điên đảo là đấy! Đấy là điên đảo.
Đem một cánh tay này mà so sánh, để chỉ rõ thêm ra: Thân Như Lai gọi là thân Phật (giác ngộ), thân các ông gọi là thân điên đảo (chúng sanh). Vậy ông nên chính chắn xem xét: thân ông và thân Phật, cái "Điên đảo" (chúng sanh) ở chỗ nào?
LƯỢC GIẢI
Ý Phật chỉ: Đồng một thể tánh chơn tâm, vì vô minh vọng động, chấp đây thật là Phật, kia thật là chúng sanh. Đó là "điên đảo".
III.-PHẬT CHỈ NGAY CÁI "ĐIÊN- ĐẢO"
Khi ấy A-Nan và đại chúng nhìn Phật sửng sốt, đôi mắt không nháy, vì không biết ở nơi thân này và tâm này, cái "điên đảo" ở chỗ nào!
Phật thấy vậy thương xót mới dạy tiếp:
Ta thường nói: "Các pháp đều duy tâm biến hiện, cho đến thân và tâm ông ngày nay, cũng đều là vật ở trong chơn tâm hiện ra ". Tại sao các ông lại bỏ cái bản thể chơn tâm đi. Các ông vẫn ở trong ngộ (chơn tâm) làm mình (điên đảo là đó), thật đáng buồn thương!
IV.-PHẬT DẠY: VÌ MÊ NÊN CÓ THẾ -GIỚI VÀ CHÚNG- SANH.
-Này A-Nan, bởi vô minh vọng động nên biến hiện ra có hư không, thế giới và chúng sanh. Trong thân chúng sanh vì có vọng tưởng lẫn lộn, nên nó vọng động leo chuyền bên trong (như vượn, như ngựa); khi các giác quan mở ra, thì nó rong ruổi theo trần cảnh bên ngoài (như vượn sút xiềng, ngựa tông chuồng). Rồi các ông chấp cái tướng vọng tưởng lăng xăng bên trong đó, cho là tâm tánh của mình. Một phen chấp nó làm tâm, thì không sao khỏi mê lầm cho rằng "tâm ở trong thân".
Chứ đâu biết rằng: thân này, tâm này, cho đến núi, sông, thế giới và hư không đều là vật trong chơn tâm hiện ra cả.
LƯỢC GIẢI
Như người đương thức (dụ chơn tâm) bỗng chốc buồn ngủ (dụ vô minh). Khi ngủ chiêm bao thấy có hư không, thế giới, chúng sanh và mình (dụ vô minh sanh ra thế giới và chúng sanh), rồi chấp cái thân và tâm trong chiêm bao kia là mình, mà bỏ cả cảnh thức tỉnh rộng lớn này đi v.v...(dụ như vì mê muội nên nhận cái vọng thân vọng tâm này làm mình, cảnh này là thật, mà bỏ cái toàn thể chơn tâm sáng suốt rộng lớn kia).
* * *
Cái chơn tâm rộng lớn như vậy, các ông lại bỏ đi không nhận, trở lại chấp cái vọng thân, vọng tâm này cho là thật của mình. Cũng như toàn thể bể cả rộng khơi trong trẻo kia không nhận, trở lại chấp hòn bọt nhỏ nhen cho là toàn thể bể cả, thật là điên đảo! Các ông là một trong vô số người mê muội, thật đáng thương xót !
Như, cũng một cánh tay của ta, mà chấp thế này là ngược, thế kia là xuôi, cũng đồng một loại điên đảo!
V.- A-NAN ĐÃ HIỂU ĐƯỢC "CHƠN TÂM" SONG CHƯA DÁM NHẬN.
Ông A-Nan vì thấy lòng từ bi tha thiết của Phật thương xót hết sức nồng hậu, chỉ dạy rất thâm trầm, nên cảm động rơi nước mắt, kính cẩn bạch Phật rằng:
-Con tuy nhờ Phật chỉ dạy cho hiểu được chơn tâm, nhưng hiện nay con vẫn còn dùng "cái tâm phân biệt" (vọng tâm) nghe lời Phật nói, rồi ngộ suông cái chơn tâm này mà thôi, nên chưa dám nhận chắc là tâm con. Vậy xin Phật thương xót chỉ dạy cho con hết nghi ngờ, để trở về với đạo vô thượng.
Phật dạy: Nếu các ông lấy vọng tâm nghe chánh pháp (chơn tâm) thì chánh pháp này cũng trở thành ra vọng, không thể nghe đặng chánh pháp.
Các ông nên biết: ta cũng như người dùng ngón tay chỉ mặt trăng, các ngươi phải nhơn ngón tay mà xem mặt trăng. Nếu chấp ngón tay cho là mặt trăng, thì chẳng những không thấy được mặt trăng, mà cũng không biết luôn cả ngón tay. Vì cho ngón tay là mặt trăng, thì không những không biết ngón tay là gì, mà cũng không biết thế nào là tối và sáng. Vì mê chấp ngón tay là mặt trăng, thì tối và sáng làm sao rõ được.
Nay nếu các ông chấp cái "phân biệt" (vọng) làm tâm của mình, thì cái tâm này, khi rời tiếng nói pháp của ta, cũng vẫn còn phân biệt, thế mới phải thật là tâm của các ông (chủ). Nếu rời tiếng nói pháp của ta ra, mà các ông không còn phân biệt nữa, thì đó là vọng (khách) chớ không phải thật tâm (chủ) của các ông rồi.
Cũng như người khách, chỉ ngủ nhờ rồi đi, chớ không ở lại được. Nếu thật là chủ nhà, thì ở luôn chớ không còn đi đâu nữa.
Cũng thế, nếu thật là tâm của ông, thì không đi đâu cả. Tại sao khi rời tiếng nói pháp của ta, thì ông không còn phân biệt nữa?
Không những cái "phân biệt" về tiếng, cho dến cái "phân biệt" về sắc, hương ,vị , xúc và pháp, nếu rời sáu trần cảnh ra, thì nó đều không còn phân biệt nữa. Thế thì cái tâm của ông đồng là khách, có chỗ trả về. Vậy cái nào là "chủ", thật là tâm của ông?
A-Nan hỏi Phật: -Nếu cái tâm của con có chỗ trả về (trần cảnh qua thì tâm phân biệt hết) thì tại sao đức Như Lai lại nói: "Cái chơn tâm của con không trả về đâu cả?". Xin Phật mở lòng từ bi chỉ dạy cho.
IV.-PHẬT CHỈ TÂM LẦN THỨ TƯ
Phật dạy: -Này A-Nan, tất cả cảnh vật trong thế gian không ngoài: sáng, tối, trống, bít, trong, đục v. v...Nay ta đem các vật này, cái nào trả về cho bản nguyên của cái nấy.
Như ánh sáng thì trả về cho mặt nhựt, vì không mặt nhựt thì không sáng; còn tối thì trả về cho ban đêm, thông trả về cho trống, bít trả về cho vách, trong trả về cho tịnh, đục trả về cho bụi v.v...Cái nào trả về cho cái nấy rồi; còn cái "thấy" của ông thấy các cảnh vật đó, ông muốn nó trở về đâu? Nếu trả về cho cái sáng, thì khi tối đến đáng lẽ ông không thấy tối. Nếu trả nó về cho tối, thì khi sáng đến ông cũng phải không thấy sáng; còn trả về cho trống, bít v.v...cũng thế.
Rõ ràng các cảnh vật tuy có thiên sai vạn biệt, mà "cái thấy" của ông thật không sai khác. Như vậy, cái nào có thể trả được, thì cái đó là khách, tự nhiên không phải là ông rồi; còn cái nào ông không trả về được, thì cái đó là chủ, quyết định của ông chớ ai?
Cái tâm của ông mầu nhiệm sáng suốt và sẵn sàng như vậy, tại sao ông lại tự mê muội đi, trở lại nhận cái vọng làm mình, đành chịu nổi chìm trong biển khổ sanh tử, thật đáng thương xót !
LƯỢC GIẢI
Đoạn này Phật phân tách các trần tướng, cái nào trả về cái nấy, để cho rõ "cái thấy" không trả về đâu được. Đó là cái "chủ", là "tâm" của chúng ta vậy.
***
VII.- A-NAN CÒN NGHI HỎI PHẬT
A-Nan thưa: Bạch thế tôn, con tuy biết cái "thấy" này, không trả về đâu được, nhưng làm sao biết chắc nó là "chơn tâm" của con?
VIII.-PHẬT CHỈ TÂM LẦN THỨ NĂM
Phật dạy rằng: Này A-Nan, ông thử xem trước mắt, tất cả các cảnh vật sum la vạn tượng, nào là núi sông, đất nước v.v...Ông nên lựa riêng ra cái nào thuộc về cảnh vật, còn cái nào là tâm ông.
Này A-Nan, cùng tột tầm mắt thấy của ông, ngó lên thì thấy mặt trời, mặt trăng, đó là vật chớ không phải là ông; xem rộng ra, núi, sông, cây cối, cỏ hoa, người thú; cho đến gió bụi, chim chóc, cũng đều là vật chớ không phải ông.
A-Nan, tất cả các cảnh vật, mặc dù có cao thấp, xa gần, ngàn sai muôn khác, song cũng đều là "vật bị thấy" của ông cả. Các vật loại tuy có sai khác, mà cái thấy của ông không khác. Thế thì cái "hấy" này chính là "tâm" của ông chứ không phải vật.
LƯỢC GIẢI
Đoạn này Phật chỉ tâm rất rõ ràng.
***
IX.-PHẬT DẠY THÊM CÁI "THẤY" LÀ TÂM CHỨ KHÔNG PHẢI VẬT
Nếu cái "thấy" này là vật, thì ông cũng có thể thấy được cái "thấy" của ta.
Nếu ông cùng ta đồng thấy một vật, (bị thấy) mà ông cho là thấy được "cái thấy" của ta, thời khi ta không thấy, sao ông chẳng thấy được cái "không thấy" của ta? (vì cái thấy không phải vật nên chẳng thấy được nó).
Nếu ông nói: thấy được cái "không thấy" của ta, thì ông thấy cái gì đó, chớ quyết định không phải là thấy cái "không thấy" (tâm) của ta. Nếu ông không thấy được cái "không thấy" của ta, thì quyết định nó là "tâm", đương nhiên không phải là vật rồi.
Lại nữa, nếu cái thấy là vật, thì khi ông thấy nó, nó cũng phải thấy được ông. Như vậy thời tâm, vật lộn lạo; và trong thế gian này, không thể phân biệt được loài hữu tình (tâm), và loài vô tình (vật).
LƯỢC GIẢI
Đại ý đoạn này Phật nói vật thì bị thấy, còn tâm thì không bị thấy. Bởi cái thấy là tâm, nên không thể thấy được nó.
***
Này A-Nan, khi ông thấy các cảnh vật, cái thấy của ông khắp giáp tất cả, cái thấy đó không phải của ta và của người khác, thì quyết định của ông chớ ai?
Rất rõ ràng như thế, tại ông còn nghi "chơn tâm" của ông? Cái "chơn tâm" của ông như vậy, sao ông không tự nhận lấy, lại đi cầu ta chỉ "chơn tâm" cho nữa?
LƯỢC GIẢI
Đoạn này, Phật chỉ tâm rõ ràng hơn hết.
***
X.-ANAN NGHI "CÁI THẤY" CÓ LỚN NHỎ, ĐỨT NỐI.
A-Nan thưa Phật: -Bạch Thế Tôn, nếu cái "thấy" này quyết định là tâm của con, chớ không phải của ai, thì khi con xem vũ trụ bao la, thấy mặt trời, mặt trăng...lúc bấy giờ cái thấy của con rộng lớn khắp giáp cả hư không. Khi con trở vào trong nhà, thì chỉ thấy nội trong nhà thôi.
Vậy cái thấy này nó phải rút nhỏ lại, chui vào nhà, hay là khi vào nhà, nó bị tường vách cắt đứt, nên còn nhỏ như thế? Chúng con không biết nghĩa này thế nào, xin Phật từ bi chỉ dạy.
XI.- PHẬT DẠY: TRẦN CẢNH CÓ LỚN NHỎ, CÁI "THẤY" KHÔNG LỚN NHỎ
Phật dạy: Này A-Nan, trong thế gian tất cả cảnh vật có lớn nhỏ trong ngoài, tốt xấu v.v...đều thuộc về trần cảnh hiện tiền cả, chớ không phải cái thấy của ông có lớn nhỏ, tóp lại hay nới ra.
Cũng như trong cái hộp vuông, thì thấy hư-không vuông, trong cái chén tròn thấy hư không tròn. Vì chén tròn, hộp vuông, nên thấy hư không có vuông và tròn, chớ không phải cái hư không thật có tướng vuông tròn.
Nếu hư không quyết định là vuông, thì khi để cái chén tròn, đáng lẽ không thấy hư không tròn.
Trái lại, Nếu hư không quyết định là tròn, thì khi để hộp vuông, đáng lẽ không thấy nó vuông.
Vậy nên biết: vuông, tròn là tại đồ vật, chớ không phải hư không có vuông, tròn. Nếu phá hết các đồ vuông, tròn thì ông sẽ thấy hư không không có tướng vuông, tròn. Không phải bỏ hư không vuông mà có hư không tròn, hay trừ hư không tròn mà có hư không vuông.
Cái "thấy" của ông cũng thế, không có vuông tròn hay lớn nhỏ, mà lớn nhỏ, vuông tròn là tại cảnh vật.
Nếu ông có khi vào nhà, cái "thấy" quyết định phải tóp nhỏ lại, thì ông ra ngoài sân xem mặt nhựt, ông phải kéo giản cái thấy quyết định phải tóp nhỏ lại, thì ông ra ngoài sân xem mặt nhựt, ông phải kéo giản cái "thấy" ra đến mặt nhựt hay sao?
Lại nữa, khi vào nhà, nếu ông cho cái thấy bị cắt đứt đi, thì khi xoi vách trống ra một lổ, thấy được bên ngoài, sao cái thấy của ông không có đầu nối?
Nghĩa đó rất rõ ràng như vậy, chớ có chi lạ mà ông nói không biết.
A-Nan, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến giờ vì mê mình (tâm) làm vật, bỏ mất chơn tâm của mình, bị cảnh vật xoay chuyển (chi phối) nên thấy có lớn nhỏ, rộng hẹp, tốt xấu v.v...Nếu ai chuyển xoay được cảnh vật, thân tâm định sáng suốt viên mãn, thì đồng với chư Phật. Lúc bấy giờ không rời nơi đạo tràng (chỗ nầy) mà ở trên đầu một mảy lông, có thể chứa đựng khắp cả mười phương thế giới.
LƯỢC GIẢI
Từ nơi thể tánh chơn tâm, vì vô minh vọng động, sanh ra có hư không thế giới, chúng sanh cùng các cảnh vật, nên gọi "mê mình là vật".
Khi có cảnh vật rồi, cứ theo đó mà phân biệt xấu tốt, lớn nhỏ, mừng giận v.v...nên nói "bị vật chuyển xoay".
Đến khi hết vô minh vọng động, trở lại với thể tánh chơn tâm, thì các cảnh vật ấy không còn; như người thức giấc chiêm bao, thì cảnh chiêm bao kia hết, nên nói "xoay chuyển vật" là thế.
Lúc bấy giờ, một sợi lông hay mười phương thế giới cũng đều là chơn tâm cả. Đã đồng là chơn tâm, thì không còn thấy thế giới lớn hơn sợi lông, hay sợi lông nhỏ hơn thế giới, vì đồng một thể tánh, nên nói: "Trên đầu một sợi lông, có thể chứa đựng mười phương thế giới".
Đoạn này lý thâm, phải suy nghĩ nhiều mới hiểu.
Bài Thứ Năm
I.- A-Nan nghi: nếu "cái thấy" là mình, thì tâm này là ai?
II.- Cái thấy rời tất cả cái tướng.
III.- Cái thấy tức tất cả các pháp.
IV.- Phật trấn tĩnh đại chúng.
V.- Ngài Văn Thù đứng lên thưa hỏi.
VI.- Phật dạy: Cái thấy không có "thị" và "phi thị".
VII.- A-Nan nghi: Chơn tâm đồng với thuyết tự nhiên ngoại đạo.
VIII.- Phật bác cái chấp "tâm tự nhiên mà có".
IX.- A-Nan nghi: Tâm do nhơn duyên sanh.
X.- Phật bác cái chấp: "nhơn duyên sanh".
XI.- Phật dạy: Chơn tâm không thể dùng tâm suy nghĩ hay lời nói luận bàn được
XII.- A-Nan trở lại nghĩ "nhơn duyên sanh".
XIII.- Phật gạn lại hỏi "cái thấy" để chỉ rõ chơn tâm.
XIV.- Phật chỉ cái "thấy" không phải vọng, song chưa phải là chơn tâm.
XV.- Phật chỉ tâm lần thứ sáu.
I.- A-NAN NGHI: NẾU CÁI "THẤY" LÀ MÌNH THÌ THÂN TÂM NÀY LÀ AI?
A-Nan thưa Phật: -Bạch thế tôn! Nếu cái "thấy" này thật là "tâm" con, thì thân tâm của con hiện nay đây là ai? Và nếu cái "thấy" thật của con, thì nó phải hiện ở trước, khiến cho con thấy được nó.
Lại nữa, thân tâm, của con hiện nay đây, biết phân biệt được nó (cái thấy), còn nó không biết phân biệt được thân tâm con. Xin đức Thế Tôn mở lòng đại bi chỉ dạy cho kẻ chưa ngộ này.
II.-CÁI THẤY (TÂM) RỜI TẤT CẢ HÌNH TƯỚNG
Phật dạy A-Nan: Ông nói "cái thấy phải ở trước mặt để ông thấy nó", nói như vậy không phải, vì nếu cái "thấy" thật ở trước mặt ông, ông thấy được nó, thì cái "thấy" đó ở chỗ nào phải có nhất định và phải chỉ ra được .
Nay ông ngồi trong rừng Kỳ đà, xem các cảnh vật, đưa tay chỉ ra từng món: chỗ im mát kia là rừng cây, cái sáng chiếu nọ là mặt nhựt, nơi ngăn ngại này là vách, chỗ trống đó là hư không; cho đến cỏ cây hoa lá, các vật lớn nhỏ tuy khác, song đều có hình tướng, có thể chỉ ra được cả. Còn cái "thấy" nếu có ở trước mặt ông, thì ông nên lấy tay chỉ chắc chắn, cái nào là cái "thấy". Nếu hư không là cái "thấy" thì cái gì là hư không? Còn nếu cảnh vật là cái "thấy", thì cái gì là cảnh vật? Đối với các cảnh vật sum la vạn tượng, ông nên chính chắn phân tích rõ ràng, rồi chỉ cho ta xem, cái nào là cái "thấy"cũng như chỉ các vật, không có lầm lộn.
A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Con mở tầm con mắt và đưa tay chỉ khắp tất cả, thì đều là "vật" chớ không có cái nào là "thấy". Dù cho bực Bồ tát cũng không thể phân tích ở nơi muôn vật để chỉ riêng cái "thấy" ra được; huống chi chúng con là bậc sơ học thinh văn, làm sao chỉ được .
Phật dạy: Phải lắm!
LƯỢC GIẢI
Tâm không phải cái hình tướng, cũng như vàng không phải là vòng, kiềng, xoa, xuyến v.v ...
III. CÁI THẤY (TÂM) TỨC TẤT CẢ PHÁP
Phật dạy rằng: Này A-Nan ! Như lời ông nói: "trong các cảnh vật, không thể chỉ riêng cái "thấy" ra được "; vậy nay ông đứng trước cảnh vật chỉ lại coi, cái nào không phải là cái "thấy"?
A-Nan thưa: Con hiện đang xem tất cả các cảnh vật, không biết cái nào không phải cái "thấy". Nếu rừng cây kia không phải cái "thấy", thì làm sao thấy được rừng cây. Còn rừng cây là cái "thấy", thì sao gọi là rừng cây. Lại nữa, hư không nếu không phải là cái "thấy", thì làm sao thấy được hư không . Còn nếu hư không tức là cái "thấy", thì sao lại gọi là hư không. Con chính chắn suy nghĩ: cái nào cũng là cái "thấy" cả.
Phật dạy: phải lắm!
Khi đó đại chúng nghe lời Phật nói như vậy, tất cả đều hoang mang lo sợ, vì không biết nghĩa ấy thế nào.
LƯỢC GIẢI
Tâm đã sanh ra các pháp, thì pháp nào cũng là tâm cả:
Cũng như vàng đã làm ra các đồ trang sức thì món nào cũng là vàng cả.
***
IV. PHẬT TRẤN TĨNH ĐẠI CHÚNG
Phật dạy A-Nan và đại chúng hoang mang, sợ hãi, nên sanh tâm thương xót, liền an ủi A-Nan và đại chúng rằng:
Như-Lai nói chơn thật, chẳng dối trá, không phải như chúng ngoại đạo Mạc-già-lê, nói năng rối loạn không nhất định đâu. Các ông nên bình tĩnh và chín chắn suy xét lại, chớ để cho Như Lai thêm lòng thương xót.
V.- NGÀI VĂN THÙ ĐÚNG LÊN THƯA HỎI
Khi ấy Ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương tử thương cả bốn chúng, nên đứng dậy lạy Phật , cung kính chắp tay và thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Trong đại chúng đay chưa hiểu cái nghĩa: các cảnh vật là cái "thấy" hay không phải cái "thấy"?
Bạch Thế Tôn! Các cảnh vật hiện tiền đây, nếu là cái "thấy", thì phải chỉ ra được; còn nếu không phải cái "thấy", thì đáng lẽ không thể thấy được. Vì trong đại chúng không hiểu nghĩa này thế nào, cho nên mới sợ hãi, hoang mang. Cúi xin đức Như Lai duỗi lòng từ bi chỉ dạy cho biết: Các cảnh vật hiện tiền đây, cùng với cái "thấy" này, nguyên là gì? Trong đây không có cái "phải" và cái "không phải".
LƯỢC GIẢI
Đoạn này lý thâm, nên ngài Văn-Thù mới đứng lên thưa hỏi: người học phải suy xét nhiều mới hiểu được.
Nói cảnh vật và cái thấy, tức là chỉ cả vật chất với tinh thần đồng một thể tánh chơn tâm. Vì chơn tâm thì không thể suy nghĩ và bàn luận được, phải tự ngộ mà thôi, nên nói, "nguyên nó là cái gì?" (vì không thể nói ra được). Bởi nó rời đối đãi thị phi, nên nói "trong đó không có cái phải và cái không phải".
***
VI.- PHẬP DẠY: CÁI "THẤY" KHÔNG CÓ "PHẢI" VÀ "KHÔNG PHẢI" (THỊ, PHI THỊ)
Phật kêu ngài Văn-Thù và Đại chúng, dạy rằng:
- Mười phương các đức Phật và các vị Đại Bồ tát an trụ trong chơn tâm rồi, thời không còn thấy thật có các cảnh vật là căn, trần, thức nữa. Cái thấy cùng với cảnh vật bị thấy, nguyên là "chơn tâm". Đã là chơn tâm, thì đâu còn có "phải" hay "không phải" nữa. Như ông là Văn Thù, vậy có thể nói ông là "thật" Văn Thù hay "không thật" Văn Thù được không?
Văn-Thù thưa: -Bạch Thế Tôn! Chính như thế đó, con là Văn-Thù rồi, thì không thể nói "thật Văn-Thù" được; vì nếu nói "thật Văn-Thù", thì phải nói ông Văn-Thù giả (thứ hai). Song con nay đã là Văn-Thù rồi, thì không thể nói "thật" hay "không thật" được.
LƯỢC GIẢI
Chơn tâm không hai, nên không còn thị và phi đối đãi; không thể nói "quấy" đã đành, mà nói "phải" cũng không trúng. Bởi vì nó ngoài vòng đối đãi, cũng như ông Văn-Thù là Văn-Thù, không thể nói: "thật" hay "không thật" được .
***
Phật dạy: Cái thấy cùng với cảnh vật bị thấy cũng lại như vậy, đều là thể tánh chơn tâm, vì vọng động mà có ra: thấy nghe và các cảnh vật. Nó cũng như mặt trăng thứ hai, đâu có gì mà nói "phải" hay "không phải". Nghĩa là chỉ có một mặt trăng chánh, (chơn tâm) trong đó không có cái "phải" mặt trăng hay "không phải" mặt trăng.
Nay ông thấy có cái "thấy" và "cảnh vật bị thấy" đó là vọng tưởng; còn đối với thể tánh chơn tâm, thì không còn nói phải hay không phải được. Bởi thế nên chơn tâm nói ra ngoài cái phạm vi "chỉ bày" và "không chỉ bày" của ông rồi.
LƯỢC GIẢI
Suy nghĩ không tới nói năng không nhấm. Đại ý đoạn này nói: chỉ có một chơn tâm, không thể nói phải hay không phải, nó vượt ra ngoài sự đối đãi và nói năng phân biệt.
Vì vọng động mà sanh ra các vật chất (cảnh) và tinh thần (tâm). Cũng như chỉ có một mặt trăng chánh, không thể nói phải mặt trăng hay không phải mặt trăng; vì lòa mà thấy in tuồng có mặt trăng thứ hai.
***
VII.- A-NAN NGHI "CHƠN TÂM" ĐỔNG VỚI THUYẾT "TỰ NHIÊN" CỦA NGOẠI ĐAO.
A-Nan thưa: -Bạch Thế Tôn! Ngày trước Phật ở tại núi Lăng Già, có dạy cho ông Đại Huệ Bồ Tát v.v...rằng: "các chúng ngoại đạo kia thường chủ trương thuyết "tự nhiên sanh", còn ta thời nói "các pháp do nhơn duyên sanh", nên không đồng với thuyết của các ngoại đạo kia".
Hôm nay nghe lời Phật dạy, thì con hiểu cái "chơn tâm" này in như tự nhiên mà có; chớ không phải "nhơn duyên sanh", vì nó rời tất cả các vọng tưởng điên đảo, không sanh, không diệt. Cúi xin Phật từ bi chỉ dạy cho con ngộ được chơn tâm thường trụ này, mà không lạc vào thuyết "tự nhiên" của các tà đạo.
LƯỢC GIẢI
Cái chơn tâm này, nó tuyệt đối đãi, ngoài thị và phi. Nếu còn chấp có, không, thị và phi, nhơn duyên hay tự nhiên v.v...Đều không trúng cả. Song chúng sanh vì cái mê chấp nhiều đời, cũng như cây chuối nhiều bẹ, lột hết bẹ này, thì nó bày ra bẹ khác. Phật vừa bác xong thị và phi, thì ông A-Nan liền chấp nhơn duyên và tự nhiên v.v...than ôi! Lưới mê nhiều đời chồng chập, thật khó trong một lúc vẫy vùng ra khỏi!
VIII.- PHẬT BÁC CÁI CHẤP "TÂM TỰ NHIÊN MÀ CÓ"
Phật dạy rằng: Ta đã dùng nhiều phương tiện và thành thật chỉ dạy cho tường tất như thế, mà ông cũng chưa hiểu ngộ, lại còn mê muội chấp là tự nhiên nữa.
A-Nan nếu thật tự nhiên, thì ông phải chỉ rõ cái "thấy" này, lấy gì làm cái thể tự nhiên của nó? Lấy cái "sáng" làm tự nhiên hay lấy cái "tối" làm tự nhiên? Lấy cái "trống không" làm tự nhiên hay lấy cái "ngăn bít" v.v...làm tự nhiên?
A-Nan, nếu lấy cái "sáng" cho là tự nhiên cái thể của nó như vậy, thì khi tối lại, đáng lẽ ông không thấy được tối. Cho đến lấy cái "tối" v.v...làm thể tự nhiên của nó, thì khi sáng đến, cái thấy của ông phải mất, làm sao thấy được cái sáng v.v...
IX.- A-NAN LẠI NGHI TÂM DO "NHƠN DUYÊN SANH"
A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn, cái thấy này nếu không phải tự nhiên mà có, thì chắc do nhơn duyên sanh. Con hiểu như vậy chẳng biết có phải không? Xin đức Thế Tôn từ bi chỉ dạy.
X.- PHẬT BÁC CÁI CHẤP "NHƠN DUYÊN SANH"
Phật bác rằng: Ông nói "nhơn duyên sanh". Vậy nay ta hỏi ông: Cái thấy này là nhơn duyên cái sáng mà có, hay nhơn duyên cái tối mà có? Nhơn duyên cái trống không mà có, hay nhơn duyên cái ngăn bít v.v...mà có?
A-Nan, nếu nhơn duyên cái sáng mà có, thì khi tối đến, ông phải không thấy được cái tối; còn nhơn duyên cái tối, cái trống, cái bít v.v...cũng vậy.
XI.- PHẬT DẠY: CHƠN TÂM KHÔNG THỂ SUY NGHĨ VÀ LUẬN BÀN ĐƯỢC.
Phật dạy: A-Nan! Ông phải biết: Cái thấy (tâm) này không phải "nhơn", không phải "duyên", không phải "tự nhiên", và cũng không phải "không tự nhiên", không phải "phi", không phải "bất phi", không phải "thị", không phải "phi thị", nó rời tất cả tướng, mà chính là tất cả pháp. Như thế thời ông làm sao để tâm suy nghĩ cho tới, dùng lời nói luận bàn cho kịp và gọi nó bằng thứ gì được. (ly ngôn thuyết tướng, ly tâm duyên tướng, ly danh tự tướng).
Nếu ông để tâm suy nghĩ và dùng lời nói luận bàn, thì cũng như người quơ tay chụp bắt hư không; chỉ thêm mệt nhọc, chớ làm sao mà chụp bắt hư không cho được.
LƯỢC GIẢI
Đến chỗ cao siêu tuyệt diệu, thì không còn suy nghĩ, luận bàn được; nếu còn suy nghĩ luận bàn được thì không phải là cao siêu tuyệt diệu.
Bởi thế nên Đức Thích Ca đóng cửa thất tại nước Ma-Kiệt, ông Duy-Ma-Cật ngậm miệng tại thành Tỳ-Da, tổ Đạt-Ma ngồi tại chùa Thiếu Lâm, day mặt vô vách chín năm, không nói một lời, đều vì cái lý cao siêu, không thể luận bàn được.
***
XII.- A-NAN TRỞ LẠI NGHI "NHƠN DUYÊN SANH"
A-Nan thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Cái "thấy" này nếu không phải "nhơn" không phải "duyên", tại sao đức Thế Tôn thường cùng với các thầy Tỳ-kheo nói: "cái thấy phải đủ bốn duyên mới sanh"; như nhơn hư không, ánh sáng, tâm và con mắt mới sanh. Vậy nghĩa này thế nào?
Phật dạy rằng: Này A-Nan, ta nói thuyết nhơn duyên, là đứng về phần sự tướng (hiện tượng), chỉ các pháp trong thế gian mà nói, chớ không phải chỉ cho lý tánh tuyệt đối (bản thể) vậy.
LƯỢC GIẢI
Về phương diện pháp tướng (mượn danh từ triết học nói cho dễ hiểu, gọi là phần hiện tượng) nói về "thức", thì Phật nói có căn, trần, thức và nhơn duyên v.v...Còn đứng về phương diện pháp tánh (mượn danh từ triết học nói cho dễ hiểu, gọi là phần bản thể) thì không còn danh tướng, nói năng kêu gọi hay suy nghĩ được.
Bởi thế nên trong kinh, Phật nói: "Đạo ta cao siêu không thể suy nghĩ và luận bàn được". Kinh này là nói về phần lý tánh tuyệt đối.
***
XIII.- PHẬT GẠN HỎI LẠI CÁI "THẤY" ĐỄ CHỈ RÕ CHƠN TÂM
Phật hỏi: Này A-Nan! Bây giờ ta hỏi ông: người đời thường nói "tôi thấy". Vậy thế nào là "thấy" và thế nào là không "thấy"?
A-Nan thưa: Người đời nhơn có ánh sáng mới thấy được cái vật, thì gọi là "thấy"; còn không có ánh sáng, chẳng thấy các vật, thì bảo rằng "không thấy"
Phật dạy: Nếu không có ánh sáng mà bảo là không thấy, thì khi tối đến đáng lẽ ông cũng không thấy được cái "tối"? Còn như ông thấy được cái "tối", thì khi đó chẳng qua không có ánh sáng mà thôi, chớ sao lại nói "không thấy"?
Lại nữa, nếu khi tối ông không thấy được cái "sáng", mà ông cho cho là thấy, thì khi sáng ông không thấy được cái "tối", đáng lẽ cũng phải bảo là không thấy mới phải. Như vậy, thìi "tối" vá "sáng" cả hai đều phải bảo là "không thấy" hết.
Bởi thế, ông nên biết: "tối" và "sáng" hai món trần tướng nó tự thay đổi với nhau, còn cái "thấy" của ông lúc nào cũng có. Vậy thì thấy "tối" và "sáng" đều gọi là thấy cả, tại sao khi thấy tối, ông nói "không thấy"?
XIV.- PHẬT CHỈ THẤY CÁI KHÔNG PHẢI VỌNG, SONG CHƯA PHẢI LÀ CHƠN TÂM
(Đoạn này nguyên ở trước, nay dịch giả đem lại đây cho thuận nghĩa).
Phật dạy A-Nan rằng: -Cái "thấy" của ông đó, hông phải là vọng, song chưa phải là "chơn tâm". Nó cũng như mặt trăng thứ hai (do lòa con mắt mà có) tuy không phải bóng mặt trăng dưới nước, nhưng chưa phải là mặt trăng chánh.
LƯỢC GIẢI
Mặt trăng chánh là dụ cho chơn tâm, mặt trăng thứ hai là dụ cho cái thấy, nghe v.v...các giác quan về phần trực giác. Bóng mặt trăng là dụ cho vọng tưởng phân biệt.
Đại ý đọan này nói cái "thấy" không phải vọng tâm, nhưng cũng chưa phải là chơn tâm, nghĩa là nó gần với chơn tâm mà thôi. Cũng như mặt trăng thứ hai do lòa con mắt mà có; nó không phải bóng mặt trăng dưới nước, nhưng cũng chưa phải là mặt trăng chánh.
***
Phật dạy: A-Nan, ông phải biết: Khi ông thấy sáng, thì cái "thấy" của ông không phải là cái "sáng"; khi ông thấy tối, cái "thấy" của ông không phả là cái "tối"; khi ông thấy trống không, cái thấy của ông không phải là cái "trống không"; khi ông thấy ngăn bít cái "thấy" của ông không phải là cái "ngăn bít".
LƯỢC GIẢI
Nói cái "thấy" chớ kỳ thực là chỉ chung cho cả cái "nghe, hay, biết". Nói "sáng, tối, trống, bít" là chỉ chung cho các cảnh vật.
Đại ý bài này nói: Khi thấy các cảnh vật, thì cái "thấy" không phải là cảnh vật.
***
XV. -PHẬT CHỈ CHƠN TÂM LẦN THỨ SÁU.
Phật dạy: -Ông đã hiểu rõ bốn nghĩa này rồi; ông nên hiểu thêm lên một từng nữa: Khi "chơn tâm đã khởi ra cái "thấy" (cái giác quan), thì cái "thấy" không phải là "chơn tâm"; cái "thấy" còn cách biệt với chơn tâm, (vì còn một lớp mê), cái "thấy" không thể bì kịp với "Chơn tâm" (đoạn này Phật mới chỉ chính xác cái chơn tâm)
LƯỢC GIẢI
Mượn danh từ triết học nói cho dễ hiểu: khi bản thể (tâm) khởi ra hiện tượng (các giác quan) thì hiện tượng không phải là bản thể, hiện tượng còn cách biệt với bản thể, hiện tượng không thể bì kịp bản thể. Cũng như khi nước đã biến thành sóng, thì sóng không phải hoàn toàn là nước, sóng còn xa biệt với nước (vì bị gió xao động), sóng không thể bì kịp nước.
Đành rằng "tâm" cùng với cái "thấy" v.v...không hai, nhưng vì mê nên tâm biến ra các giác quan thấy nghe hay biết. Lúc bấy giờ cái thấy nghe ấy biết, không phải là chơn tâm. Ngộ rồi thì cái thấy nghe hay biết mới gọi là "chơn tâm". Song khi chưa ngộ thì không thể nói cái thấy, nghe v.v...Các giác quan là chơn tâm được.
Cũng như nước với sóng không khác, nhưng vì gió động nên nước biến thành sóng; lúc bấy giờ sóng không phải là nước, nước cách biệt với sóng. Đến khi hết gió xao động thì sóng trở lại thành nước. Nhưng khi còn động thì không thể nói sóng đó là nước. Như thế thời ông làm sao lại nói là "nhơn duyên, tự nhiên, hòa hợp, và phi hòa hợp"được. Các ông là hàng Thinh văn, trí thức hẹp hòi, không thông hiểu được thập tướng (chơn tâm). Ta đã chỉ dạy nhiều lần rồi, vậy các ông nên khôn khéo suy nghĩ và cố gắng tiến lên tu hành, chớ nên giải đãi trên con đường bồ đề.
******
Bài Thứ Sáu
XIII. -NƯỚC TỪ CHƠN TÂM BIẾN HIỆN
A-Nan , tánh nước không tịnh, đứng chảy chẳng thường. Như trong thành Thất La, các vị đại huyễn sư, như ông Ca-tỳ-la-tiên, Chiết-ca-la-tiên, Bác-đầu-ma và Ha-tát-đa v.v...Các vị này thường lấy nước mặt trăng hòa với thuốc. Họ chờ đêm nào trăng sáng trong, cầm hột châu phương chư hứng mặt trăng, thì có nước chảy ra ở thau.
Vậy nước ấy từ hột châu sanh? Hay từ hư không ra? Hay từ mặt trăng đến?
A-Nan, nếu từ mặt trăng đến, nó làm cho hột châu ra nước; vậy thì từ phương xa đến đây, trong khi trải qua cây cối các cảnh vật, nó phải đều làm cho ngập ướt cả; nếu thế thì cần gì phải có hột châu phương chư (hột châu lấy nước)? Song sự thật các cảnh vật không ngập ướt, thì rõ ràng nước ấy không phải từ mặt trăng đến.
Còn nói "nước từ hạt châu ra", thì hột châu nếu đã chảy ra được nước, đáng lẽ lúc nào nó cũng tự chảy ra được nước, cần gì phải chờ nữa đêm hứng mặt trăng sáng mới có nước?
Còn nói "nước từ hư không sanh" thì hư không vô biên, nước cũng phải vô biên; vậy thì từ nhơn gian cho đến thiên thượng, tất cả cỏ cây, đất đai đều bị ngập lụt cả.
Ông nên chín chắn xem xét: Mặt trăng ở trên trời, hột châu ở tay người cầm, cái thau hứng nước lại để dưới đất. Mặt trăng với hột châu để cách xa nhau, không phải hòa cũng không phải hiệp, vậy nước đó từ đâu mà đến? Không lẽ không nhơn đâu mà nó tự có.
Ông không biết trong chơn tâm, tánh (bản thể) của nước (tâm) thật không; tánh (bản thể) của không (tâm) thật nước, vốn sẵn thanh tịnh khắp giáp cả pháp giới, tùy tâm của chúng sanh phân biệt như thế nào, thì nó hiện ứng như thế nấy. Một người cầm hột châu lấy nước, thì một chỗ đó có nước. Nếu tất cả người trong thế gian đều cầm hột châu lấy nước, thì khắp cả trong thế gian đều có nước. Nước tùy theo nghiệp chướng trong chúng sanh mà phát hiện ra; nó không có phương hướng sứ sở gì. Người trong thế gian không biết, lầm chấp nhơn duyên sanh, hoặc tự nhiên có, đều do thức tâm vọng chấp, phân biệt cả. Phàm có nói năng, luận bàn thế nào, cũng đều không đúng cả.
XIV.-GIÓ TỪ CHƠN TÂM BIẾN HIỆN
A-Nan, tánh gió không tịnh, động và tịnh chẳng thường. Như ông thường đắp y đi vào đại chúng, cái chéo y của ông phất qua người gần bên, thì có một chút gió quạt đến mặt người. Vậy gió này từ chéo y bay ra, hay từ hư không bay đến, hay từ nơi mặt người sanh?
A-Nan, nếu gió này từ cái y bay ra, thì cái y đã thành gió, vậy nó phải bay bổng rời khỏi thân ông, và ông đắp y thành ra đắp gió hay sao? Ta hay xổ cái y ra, ông hãy thử xem coi gió ở chổ nào? chẳng lẽ trong y có chổ cất (để) gió.
Nếu gió từ hư không sanh, vậy thời khi ông không động cái y, sao chẳng có gió? Và hư không thường còn, thì gió cũng phải thường sanh, nếu khi nào không có gió, thì hư không phải diệt. Song thật ra gió có thể diệt (hết) chớ không làm sao diệt được.
Nếu hư không có sanh diệt, thời không gọi là hư không; còn gọi là hư không thời làm sao lại sanh ra gió được.
Còn ông nói "gió từ nơi mặt người bị phất sanh"; nếu thật thế, thì gió phải phất đến mặt ông mới phải, tại sao nó lại phất ngược trở lại mặt người bị phất.
Ông nên chính chắn xem xét: Cái y là ở nơi ông, cái mặt là thuộc về người kia (bị phất), còn hư không thì tự yên lặng; gió (động) với hư không (lặng) tánh khác nhau, không hòa không hiệp, vậy gió từ nơi đâu mà phát động đến đây? Không lẽ không từ nơi đâu mà tự có.
Các ông không biết trong chơn tâm, tánh (bản thể) của gió (tâm) là thật gió, vốn sẵn thanh tịnh, khắp giáp cả pháp giới, tùy tâm chúng sanh phân biệt như thế nào, thời nó hiện ra như thế nấy. Một người phất y, thời có một chút gió sanh ra. Nếu tất cả mọi người trong thế giới đều phất y, thì cả thế giới đều có gió, theo nghiệp của chúng sanh mà phát hiện, không có phương hướng, xứ sở gì. Thế gian không biết, khởi thức tâm phân biệt so đo, lầm chấp là nhơn duyên sanh, hoặc tự nhiên có v.v...đều không đúng cả.
Bài Thứ Bảy
I-Hư không từ chơn tâm biến thiện
II-Các giác quan từ chơn tâm biến thiện
III-Thức (phân biệt) từ chơn tâm biến thiện
IV-A-Nan ngộ được chơn tâm, đứng dậy phát nguyện rộng lớn.
I.-HƯ KHÔNG TỪ CHƠN TÂM BIẾN THIỆN
A-Nan, hư không vô hình, nhơn các hình sắc mà hiện bày ra. Như ở trong thành Thất la này, khi dân chúng mới cất nhà, thì họ đào giếng để múc nước. Đào một thước đất, thì thấy có một thước hư không hiện ra, đào xuống mười thước thì thấy có mười thước hư không hiện ra; hư không cạn không hay sâu là tùy người đào nhiều hay ít. Vậy hư không này là do đất sanh, do đào mà có, hay không do đâu mà tự sanh?
A-Nan, hư không này, nếu không do đâu mà tự sanh, thì khi chưa đào sao không thấy có hư không, mà chỉ thấy đất đặc? Còn cái hư không do đào mà có; thì khi quăng đất ra, đáng lẽ phải thấy hư không vào. Nếu quăng đất ra trước mà không thấy hư không vào, thời sao lại nói hư không do đào đất mà có?. Nếu hư không không ra vào, thời đáng lẽ nó cùng với đất không khác; nếu không khác thời đồng với đất. Vậy khi quăng đất ra, sao chẳng thấy hư không ra? Nếu nói hư không do đào đất mới có, thời khi đào, đáng lẽ phải ra hư không chớ sao lại ra đất? Còn nói hư không chẳng do đào mà ra thì khi đào ra đất, tại sao thấy có hư không?
Các ông nên chính chắn quan sát: đào là từ nơi tay người tùy theo chỗ mà đào. Còn đất cục là nhơn chỗ đất cái dời đi. Đào là việc thật, còn hư không thì trống không, hai cái không dính líu gì với nhau, không hòa không hiệp. Vậy hư không từ nơi đâu mà ra không lẽ không nhơn đâu mà hư không tự có.
Các ông biết trong chơn tâm tánh (bản thể) của hư không (tâm) là chơn giác (tâm); tánh (bản thể) của giác (tâm) là chơn không, vốn sẵn thanh tịnh, khắp giáp cả pháp giới, tùy theo tâm chúng sanh thế nào, thì nó hiện ra thế ấy. Một chỗ đào giếng, thì một chỗ có hư không, khắp cả trong thế gian đều đào giếng, thì khắp cả thế gian có hư không; tùy theo nghiệp của chúng sanh mà hiện ra, không có phương hướng xứ sở gì. Người trong thế gian không biết, khởi tâm phân biệt so đo, chấp là nhơn duyên sanh hoặc tự nhiên có v.v...đều không đúng cả.
A-Nan, ông nên biết: hiện tiền tính của năm đại: đất, nước, gió, lửa và hư không vốn viên dung khắp giáp, không lay động, đều là chơn tâm cả, không có sanh và diệt. Chỉ tại các ông mê muội không biết mà thôi.
LƯỢC GIẢI
Đất, nước, gió, lửa và hư không, năm đại này thuộc về phần vật chất, đại diện cho các cảnh vật. Hai đại diện sau (kiến và thức) là thuộc về phần tinh thần, đại diện cho các thức.
II.-CÁC GIÁC QUAN TỪ CHƠN TÂM BIẾN HIỆN
A-Nan, cái thấy không tự thể, nhơn đối với cảnh vật và hư không mà có, như ông ngày nay ngồi trong rừng Kỳ đà, sớm mai thấy sáng, chiều lại thấy tối, đêm không trăng trời thấy tối, có trăng lại thấy sáng. Nhơn có tối và sáng, nên ông mới thấy có phân biệt.
Vậy cái thấy này cùng với tối, sáng và hư không là một thể hay không phải một thể? Đồng hay khác?
Này A-Nan, khi tối thì không có sáng, khi sáng không có tối. Nếu cái thấy này cùng với tối đồng một thể thì khi sáng đến, cái thấy phải mất. Còn cái thấy này cùng với cái sáng đồng một thể, thì khi tối lại, cái thấy diệt. Nếu cái thấy diệt, thời làm sao thấy tối và thấy sáng. Lại nữa, tối và sáng khác nhau, còn cái thấy lại không sinh diệt, như thế thời làm sao nói đồng một thể được.
Nếu nói cái thấy cùng với tối, sáng và hư không chẳng phải một thể, thì rời tối, sáng và hư không, ông hãy chia riêng cái thấy của ông ra xem thử hình tướng của nó thế nào. Nếu trời tối, sáng và hư không thì cái thấy của ông như lông rùa, sừng thỏ; nghĩa là không có. Khi phân tách ra tối, sáng và hư không, ba cái đều khác, thì cái thấy của ông ở chỗ nào?
Lại nữa, tối sáng trái nhau, thế nào nói đồng được? Rời tối, sáng và hư không ra, không có cái thấy, thì làm sao nói khác được? Không thể chia ra đây là hư không, kia là cái thấy được, thời làm sao lại nói không đồng, tối, sáng chẳng đồng, còn cái thấy không biến đổi thì sao lại nói không khác?
Ông nên chính chắn suy xét: cái sáng là từ nơi mặt nhựt, cái tối thuộc ban đêm, chỗ trống thuộc hư không, nơi bít là thuộc về đất; cái "thấy" có biết còn hư không không biết, không phải hòa không phải hiệp. Vậy cái "thấy" từ nơi đâu mà sanh, không phải tự nhiên có?
Các ông không biết: trong chơn tâm, cái tánh của "thấy" là tâm (giác minh) tâm là tánh của thấy; vốn sẵn thanh tịnh khắp cả pháp giới, tùy tâm của chúng sanh phân biệt thế nào, thì hiện ra theo sự hiểu biết của chúng sanh như thế ấy. Như một con mắt là một cái thấy. Cho đến tai nghe, mũi ngửi, miệng nếm, thân xúc, ý biết, sáu giác quan cũng vậy, đều khắp cả pháp giới, tùy theo nghiệp của chúng sanh mà hiện ra, không có phương hướng xứ sở gì.
LƯỢC GIẢI
Như điện, vào đèn thì đèn cháy, vào quạt quạt lại quay v.v...điện không có phương hướng xứ sở gì, chỉ tùy duyên phát hiện. Còn tâm cũng thế, tâm vẫn là một, nếu đến mắt thì thấy, còn đến tai thì nghe v.v...tùy duyên phát hiện.
***
Thấy, nghe, hay, biết sáu giác quan kể là một, cùng với hư không và bốn đại, thành ra sáu đại, tính có viên dung vốn không lay động, đồng một thể chơn tâm, không sanh không diệt, thế gian vì mê lầm không biết, sanh tâm phân biệt, chấp cho nhân duyên sanh, hoặc tự nhiên có đều không đúng cả.
III.-THỨC (PHÂN BIỆT) TỪ CHƠN TÂM ĐẾN THIỆN
-Này A-Nan, cái "thức" (phân biệt) không có căn nguyên, nhơn sáu căn và sáu trần mà vọng hiện. Ông nay dùng mắt xem khắp trong hội này, thì con mắt của ông chẳng khác nào như cái kiếng chiếu cảnh, không có phân biệt gì riêng khác. Rồi cái "thức" của ông mới khởi lên, tuần tự phân biệt: đây là ông Văn thù, kia là ông Phú-Lâu-Na, đó là ông Mục-kiền-liên, nọ là ông Tu-Bồ-Đề v.v...vậy cái thức hiểu biết phân biệt này, từ cái thấy sanh, hay từ nơi cảnh vật sanh? Từ hư ra, hay không do đâu mà tự xuất hiện?
A-Nan, nếu nói "cái thức của ông từ nơi cái thấy sanh", mà không có tối, sáng, cảnh vật và hư không bốn món, thì cái "thấy" của ông không có. Cái thấy còn không có, thời cái thức phân biệt kia làm sao từ nơi cái thấy mà sanh được.
Còn nói "thức phân biệt này từ cảnh vật sanh, chớ không phải từ nơi cái thấy". Nếu không có cái thấy để thấy tối, sáng, cảnh vật và hư không các tướng, thời cái "thức" của ông từ nơi đâu mà sanh được.
Còn nói "thức từ hư không sanh, không phải từ nơi cảnh vật và cái thấy". Nếu không có cái "thấy" thời không thấy được sáng, tối, cảnh vật và hư không. Còn nếu không có các cảnh vật thì thấy, nghe, hay, biết không từ nơi đâu mà có.
Nếu nói "thức không phải từ cảnh vật và cái thấy sanh", như thế thì nó đồng với cái không. Còn nói "nó có mà không phải đồng cảnh vật", thì dầu cho cái thức của ông có phát sanh ra nữa, cũng không thể phân biệt cái gì được.
Nếu nói "thức không nhân đâu, thoạt nhiên xuất hiện", thì sao khi ban ngày, ông không thể phân biệt được mặt trăng?
Ông nên chính chắn suy xét: cái thấy thì nó gá nơi con mắt của ông, còn các hình tướng là ở nơi cảnh vật. Những gì có hình tướng thời có, còn không hình tướng là không. Cái "thức" thì động (có phân biệt), còn cái thấy lại yên lặng (không phân biệt), không phải hòa không phải hiệp. Vậy thì cái thức phân biệt của ông từ đâu sanh ra? Không lẽ không do đâu mà tự có?
Các ông không biết trong chơn tâm, tánh của thức là tâm, tâm mới thật là thức (chơn thức), nó nhiệm mầu yên lặng, sáng suốt, khắp giáp cả pháp giới , hàm chứa và sanh ra mười phương hư không thế giới, chỉ tùy theo nghiệp của chúng sanh mà hiện ra, không có phương hướng xứ sở. Thế gian không biết, khởi thức tâm phân biệt chấp trước, cho là nhân duyên sanh hoặc tự nhiên có v.v...đều không đúng cả.
Các ông nên biết: đất, nước, gió, lửa hư không, cái thấy và thức tâm gọi chung là bảy đại, tánh của nó đều là chơn tâm viên mãn khắp giáp tất cả, vốn không sanh diệt. Các ông vì mê muội nên không biết.
LƯỢC GIẢI
Chúng ta nên phân biệt rõ ràng: "thức" và cái "thấy".
Cái "thấy" là thuộc các giác quan, về phần trực giác. Nó cũng như cái kiếng chiếu cảnh, không có phân biệt tính toán. Còn "thức thì có phân biệt tốt, xấu, hay, dở v.v...so theo Duy thức tông, để nói cho dễ hiểu: trong đây nói "thức" là chỉ cho thức thứ Sáu; còn nói cái "thấy" là chỉ về năm thức trước.
Tóm lại, nói đất, nước, gió, lửa, hư không, cái thấy và thức, cộng là bảy đại, gồm cả vật chất cả tinh thần.
Đất, nước, gió, lửa, hư không là thuộc về vật chất, còn thấy các thức là thuộc về phần tinh thần. Trong vũ trụ tuy có thiên hình vạn trạng, nhưng tóm lại thì không ngoài vật chất và tinh thần.
Đoạn này là cả nói về vật chất lẫn tinh thần đều từ nơi chơn tâm, tùy theo nghiệp của chúng sanh mà hiện ra như thế này, hoặc như thế kia, ngàn sai muôn khác. Như người chiêm bao thấy hiện ra các cảnh vật (đất, nước v.v...)
Về bản thể (tâm) của bảy đại thì chơn, không có sanh diệt. Còn về hiện tượng (các hình tướng) thì vọng. Vì chúng sanh mê muội không biết, chấp thế này hoặc thế kia, (như người đương chiêm bao chấp các cảnh chiêm bao là thật). Một phen ngộ được chơn tâm, thì bảy đại này đều trở về thể tánh chơn tâm (như người thức giấc, thì cảnh chiêm bao liền hết; lúc bấy giờ mới biết các cảnh vật trong chiêm bao đó, đều do tâm chiêm bao hiện ra).
IV.- A-NAN VÌ NGỘ ĐƯỢC CHƠN TÂM NÊN ĐỨNG DẬY PHÁT LỜI THỀ NGUYỆN RỘNG LỚN
Khi ấy A-Nan và đại chúng nhờ Phật chỉ dạy rất cặn kẽ, nên mỗi người đều ngộ được chơn tâm của mình rộng lớn khắp cả mười phương hư không. Lúc bấy giờ ông lại thấy cả mười phương thế giới rất nhỏ hẹp và rõ ràng cũng như một lá cây cầm trong tay. Tất cả các cảnh vật sum-la vạn-tượng trong thế gian này, đều ở trong chơn tâm; chơn tâm bao trùm khắp giáp cả mười phương thế giới. Khi ấy ông xem trở lại cái thân do cha mẹ sanh đây, thật nhỏ nhen làm sao! Như một hạt bụi nhỏ ở trong mười phương hư-không, dù còn, dù mất cũng không thấm vào đâu và cũng như một hòn bọt nhỏ, nổi ở trong bể cả rộng khơi, dầu sanh dầu diệt cũng không nhằm gì.
Vì ông A-Nan hiểu lộ được chơn tâm của mình còn không diệt và rộng lớn như vậy, nên ông đứng trước Phật chắp tay kính lạy, và xứng theo chơn tâm rộng lớn, mà nói bài kệ phát nguyện như vầy:
NGUYÊN VĂN CHỮ HÁN
Diệu trạm, Tổng trì, Bất động tôn
Thủ Lăng-Nghiêm vương, thế hi-hữu,
Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng,
Bất lịch tăng-kỳ hoạch pháp thân.
Nguyện kim đắc quả thành bảo vương,
Hườn độ như thị hằng sa chúng,
Tương thử thâm tâm phụng trần sát,
Thị tắc danh vi báo Phật ân.
Phục chỉnh Thế-Tôn vị chứng minh:
Ngũ trược ác thế hệ tiên nhập,
Như nhất chúng sanh vị thành Phật,
Chung bất ư thử thủ Nê-hoàn.
Đại hùng, đại lực, đại từ bi,
Hi cánh thẩm trừ vi tế hoặc,
Lĩnh ngã tảo đăng vô thượng giác,
Ư thập phương giới tọa đạo tràng
Thuấn-nhã-da tánh khả tiêu vong,
Thước-ca-ra tâm vô động chuyển.
DỊCH NGHĨA
Kính lạy Pháp thân, Báo-thân, Hóa-thân Phật, và kinh Thủ-Lăng-Nghiêm vương là ngôi Pháp-bảo rất hi hữu trên đời. Tiêu trừ cho con các vọng tưởng điên đảo từ ức kiếp, khiến con chẳng cần trải qua vô số kiếp tu hành mà vẫn đặng pháp-thân Phật.
Hôm nay con nguyên mau đặng thành quả Phật, để trở lại độ chúng sanh nhiều như hằng sa. Con nguyện đem thân-tâm này, phụng sự các Đức Phật nhiều như vi trần. Thế mới gọi là đền ơn chư Phật.
Cúi xin Đức Thế-Tôn chứng minh cho lời nguyện của con: "trong đời ngũ trược tội ác này, con thề vào trước để cứu khổ chúng sanh ". Nếu còn một chúng sanh nào chưa được thành Phật, thì con thề chẳng lãnh quả vui Niết-bàn.
Phật là đấng Đại-lực và Đại-từ-bi. Cúi xin Ngài tiêu trừ các điều mê lầm vì tế cho con, khiến cho con sớm đặng thành quả Phật, để hóa độ chúng sanh khắp cả mười phương thế giới. Giả sử hư không kia có thể tiêu diệt hết, chớ chí nguyện của con đây chẳng hề lay động.
LƯỢC GIẢI
Ngài A-Nan vì ngộ được chơn tâm của mình rộng lớn bao hàm cả vũ trụ: vô biên thế giới vô tận chúng sanh đều ở trong chơn tâm cả. Lúc bấy giờ, Ngài thấy mười phương thế giới rất rõ ràng và rất nhỏ hẹp cũng như cái lá cây nằm ở trong tay, còn thân này nhỏ nhen như hạt bụi bay trong hư không, dầu còn dầu mất cũng chẳng thấm vào đâu.
Bởi Ngài ngộ được chơn tâm rộng lớn, cùng với chúng sanh đồng một thể không hai, cho nên Ngài mới xứng theo chơn tâm rộng lớn, khởi ra đồng thể đại bi, phát lời thề nguyện rộng sâu như thế.
Xem như câu:
Trong đời ngũ trược tội ác này, con thề vào trước để cứu khổ chúng sanh. Nếu còn một chúng sanh nào chưa thành Phật, thì con thề chẳng lãnh quả Niết-bàn ...
Và câu:
Giả sử hư không kia có thể tiêu hết, mà chí nguyện của con đây chẳng hề lay động.
Trong kinh nói:"thế giới vô biên, chúng sanh vô tận", biết bao giờ độ cho hết tất cả chúng sanh, mà Ngài lại thề nguyện xung phong vào đời ngũ trược tội ác trước hết, để cứu độ chúng sanh. Nếu còn một chúng sanh nào chưa thành Phật, thì Ngài chẳng chịu an vui ở cảnh Niết-bàn.
Thật là lòng từ bi rộng lớn vô cùng, chí nguyện cao thượng huyền diệu sinh độ đời của Ngài như thế, đáng cho chúng ta trọn đời bái phục...
Trông lên Ngài rồi ngó lại ta...thấy rõ tâm chí và hành vi của mình, thật cũng quá ư hẹp hòi và thấp thỏi!
💠 ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT NIỆM PHẬT VIÊN THÔNG LƯỢC GIẢNG (Chủ giảng: Lão Pháp Sư Thích Tịnh Không)
Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương Lược Giảng
Nguyên tác: Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương Thân Văn Ký
Chủ giảng: Lão Pháp Sư Thích Tịnh Không
Đệ tử Lưu Thừa Phù bút ký
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
-o0o-
Ngày 19 tháng 10 năm 1992, pháp sư Tịnh Không giảng Lăng Nghiêm Kinh Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương tại học viện Đức An Tác (De Anza College) ở Gia Châu (California) hơn một tuần, nhờ pháp sư bảo cư sĩ Trương Đức Thanh gởi cho băng thâu âm lời giảng kinh gồm tám cuốn, chúng tôi mở lên kính nghe, trích lấy những điểm trọng yếu chép lại, dâng lên các đồng tu khảo duyệt.
Chư vị đồng tu!
Lần giảng kinh này, tôi chọn lấy một đoạn kinh văn trọng yếu nhất của kinh Lăng Nghiêm là chương Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông. Cổ đức nói: "Khai huệ: Lăng Nghiêm, thành Phật: Pháp Hoa". Trong các kinh luận Đại Thừa, thường nói Nhất Xiển Đề chẳng thể thành Phật, Nhất Xiển Đề là kẻ đoạn mất thiện căn. Đến khi giảng kinh Pháp Hoa, Phật lại nói Nhất Xiển Đề cũng có thể thành Phật, tức là nói ai nấy đều có thể thành Phật. Đấy mới là giảng Phật pháp đến mức viên mãn rốt ráo, bởi thế nói "thành Phật: Pháp Hoa".
Nói chung, kinh điển Phật giáo truyền đến Trung Quốc, đều do các cao tăng đại đức hoặc cư sĩ Ấn Độ đến Trung Quốc truyền giáo mang theo, ngoài ra còn có những kinh do các học trò Trung Quốc qua Ấn Độ tham học, khi trở về nước mang theo. Những lưu học sinh ấy khi ở Ấn Độ đều chẳng được thấy kinh Lăng Nghiêm là do các vương triều nắm quyền thời ấy coi kinh này là quốc bảo, chẳng cho phép truyền ra ngoại quốc.
Thời Đường, có vị cao tăng người Ấn Độ là pháp sư Bát Lạt Mật Đế, từng trước sau hai lượt lén chuyển kinh này ra ngoại quốc, đều bị quan xét ải xét thấy, ngăn cản. Cuối cùng, Ngài chép kinh này lên một loại lụa rất mỏng, xẻ bắp tay nhét vào, trông giống như một vết thương nặng, lén chuyển qua Trung Quốc. Sau khi phiên dịch xong kinh này tại Trung Quốc, Ngài bèn trở về Ấn Độ tiếp nhận pháp luật quốc gia xét xử. Quá trình vận chuyển kinh gian nan như thế đấy.
Cuối đời Tùy, đầu đời Đường, bậc đại đức của tông Thiên Thai là Trí Giả đại sư, căn cứ vào kinh nghĩa của kinh Pháp Hoa phát huy học thuyết Tam Chỉ Tam Quán. Đương thời, có một vị cao tăng Ấn Độ nói: "Tam Chỉ Tam Quán rất giống với giáo nghĩa kinh Lăng Nghiêm". Trí Giả đại sư nghe vậy, rất mong kinh Lăng Nghiêm sớm có ngày được truyền đến Trung Quốc. Do đó, Ngài bèn xây một đài lạy kinh ở núi Thiên Thai, ngày ngày hướng về Tây lễ bái cầu cảm ứng. Lạy suốt mười tám năm cho đến ngày lão nhân gia viên tịch.
Nơi phiên dịch kinh này là Quảng Châu, người tham gia phiên dịch không đông. Tể tướng đương triều Võ Tắc Thiên là Phòng Dung, nhân phạm lỗi bị biếm ra Quảng Châu làm quan địa phương, khéo sao, nhân cơ duyên ấy được tham dự công tác dịch kinh, đảm trách nhiệm vụ bút lục. Ông rất giỏi văn chương. Nếu dùng con mắt văn học để nhận định thì văn tự kinh Lăng Nghiêm ưu mỹ nhất trong các kinh Phật.
Lúc đức Thế Tôn giảng kinh này, nói ra năm thứ đề mục kinh, các đề mục ấy như sau:
1. Đại Phật Đảnh Tất Đát Đa Bát Đát La Vô Thượng Bảo Ấn Thập Phương Như Lai Thanh Tịnh Hải Nhãn.
2. Cứu Hộ Thân Nhân Độ Thoát A Nan Cập Thử Hội Trung Tánh Tỳ Kheo Ni Đắc Bồ Đề Tâm Nhập Biến Tri Hải.
3. Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa.
4. Đại Phương Quảng Diệu Liên Hoa Vương Thập Phương Phật Mẫu Đà Ra Ni Chú.
5. Quán Đảnh Chương Cú Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm.
Các đại đức dịch kinh lấy 19 chữ trong các đề mục trên ghép thành "Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm", đặt làm đề mục bản dịch tiếng Hán kinh này. Bây giờ, chúng tôi chia ra thành bảy đoạn để giới thiệu:
I. Giải thích đề mục kinh
1. Đại:
Đại là từ ngữ khen ngợi. Chữ Đại này có nghĩa là vô hạn, chẳng phải là tương đối. Đại tức là tâm chúng sanh; tâm dung nhiếp hết thảy pháp thế gian và xuất thế gian nên gọi là Đại. Chữ Tâm rất khó giải thích, nhà Phật nói chân tâm và vọng tâm là một, chẳng phải là hai tâm. Giác là chân tâm, mê là vọng tâm. Vọng tâm chỉ phát khởi tác dụng cục bộ. Chúng sanh trong chín pháp giới trình độ mê ngộ bất đồng, mê thật nặng là chúng sanh trong địa ngục, mê rất nhẹ là Bồ Tát. Chữ "thế gian" chỉ lục phàm (1), chữ "xuất thế gian" chỉ tứ thánh (2). Mười pháp giới toàn là do tâm biến hiện.
Kinh Hoa Nghiêm nói:
Ưng quán pháp giới tánh,
Nhất thiết duy tâm tạo.
(Nên quán tánh pháp giới,
Hết thảy do tâm tạo.)
Chữ "tánh" ấy chỉ bản thể. Tâm là thể, mười pháp giới là hiện tượng. Sau khi giác ngộ, tâm ấy ắt thanh tịnh, bình đẳng, tuyệt không nhân ngã thị phi. Hết thảy vạn pháp đều lưu lộ từ tâm tánh, kinh Hoa Nghiêm gọi là Nhất Chân Pháp Giới. Các kinh điển khác, có kinh gọi là Thật Tướng, Phật Tánh, Viên Giác, Chân Như, kinh này gọi là Như Lai Tạng, những danh từ ấy đều chỉ Nhất Tâm. Phật nói nhiều danh từ như thế là nhằm dụng ý dạy chúng ta đừng chấp trước. Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận, Mã Minh Bồ Tát nói: "Lìa ngôn thuyết tướng, lìa danh tự tướng, lìa tâm duyên tướng". Tâm duyên tướng chính là chấp trước.
Mười phương vô tận, không gian lớn vô hạn, tam tế vô cùng. Tam tế (ba bờ mé) chính là thời gian: quá khứ, hiện tại, vị lai. Không gian và thời gian chính là bản thể của mười pháp giới; bản thể là cái tâm của chúng ta lớn vô hạn. Nguyên lai của mười pháp giới và chân tướng của vũ trụ nhân sanh, các khoa học gia, triết gia, các nhà tôn giáo hiện đại nghiên cứu tìm tòi, không tìm được kết luận. Vấn đề này chỉ có mình kinh Lăng Nghiêm là nói rất rõ ràng, giảng thấu triệt thực tại.
Kinh Lăng Nghiêm chỉ có sáu bảy vạn chữ, có độ sâu tương đương. Ngôn ngữ có hạn độ, nói chẳng rõ ràng, diễn đạt chẳng hết được. Phạm vi tư duy tuy rộng, vẫn không cách nào đạt đến mức rốt ráo được. Phải tách rời ngôn ngữ, tư duy mới hòng lãnh ngộ, nhưng cũng không thể nói ra được. Kinh Lăng Nghiêm có thể dẫn dắt quý vị nhập cảnh giới ấy, đạt đến trình độ tự chứng. Công phu tu đến mức thành công đó gọi là Thủ Lăng Nghiêm Đại Định. Sau khi đạt đến mức độ này, hết thảy vũ trụ, nhân sanh, hết thảy muôn pháp, nhân trước quả sau, tìm long tróc mạch (3), quý vị đều hiểu rõ ràng hết, bởi thế nói "khai trí huệ là kinh Lăng Nghiêm".
Phần mở đầu kinh Lăng Nghiêm có một đoạn kinh văn dài gọi là "bảy chỗ chỉ tâm" – đức Thế Tôn hỏi ngài A Nan "tâm ông ở đâu?" A Nan rất thông minh, Ngài cũng đáp bảy chỗ, nhưng đều bị Phật bác hết, Ngài mới thừa nhận mình mê hoặc, điên đảo, đức Phật bèn dựa trên sáu căn chỉ ra tác dụng của bản thể. Còn mê gọi là "Như Lai Tạng", giác rồi gọi là "Tu Chứng Liễu Nghĩa", liễu là hiểu rõ. Pháp môn Niệm Phật là pháp liễu nghĩa bậc nhất trong các pháp liễu nghĩa.
Để giảng về Lăng Nghiêm Đại Định, trong kinh nêu lên hai mươi lăm vị Bồ Tát làm đại biểu, mỗi vị đều đã chứng đắc minh tâm kiến tánh. Hai mươi lăm phương pháp ấy là hai mươi lăm pháp tổng quát, triển khai ra sẽ thành tám vạn bốn ngàn pháp môn. Đại Thế Chí Bồ Tát đại biểu cho việc tu Lăng Nghiêm Đại Định bằng phương pháp Niệm Phật, trong hai mươi lăm pháp môn được gọi là thù thắng bậc nhất, sau khi tu học viên mãn gọi là Thủ Lăng Nghiêm Vương.
Trong Phật pháp, tuyệt đối chẳng có gì gọi là bí mật cả! Bí mật chẳng phải là việc tốt, nói chung là chuyện con người không thấy được. Nhà Phật nói "mật" nghĩa là "thâm mật" (sâu kín), phải có trí huệ viên mãn cao độ mới hiểu rõ được. Một câu danh hiệu A Di Đà Phật chính là mật nhân (cái nhân sâu kín), y theo phương pháp này tu hành đạt được Niệm Phật Tam Muội, chứng đắc Sự Nhất Tâm Bất Loạn thì quý vị mới lý giải được chút phần; chứng đắc Lý Nhất Tâm Bất Loạn, quý vị mới có thể hiểu rõ phần lớn, nhưng vẫn chưa hiểu triệt để, đợi đến khi thành Phật mới có thể hiểu rõ triệt để.
Trong hai mươi lăm pháp môn ấy, chỉ có mỗi một pháp môn thích hợp nhất cho việc tu học của chúng ta; các pháp môn khác tuy hay, nhưng điều kiện quá cao, chúng ta tu học theo chẳng thể thành tựu ngay trong một đời này. Pháp môn Niệm Phật thích hợp nhất cho chúng sanh trong thời đại này: trí cạn phước mỏng, chướng ngại lại nhiều. Nhưng chỉ tu chết nơi Phật hiệu không thôi thì vẫn chưa đúng, phải lấy Phật hiệu làm chánh tu, và cũng cần phải có trợ tu, chẳng hạn như tu ba thứ phước như trong phần giảng về ba bậc chín phẩm của Quán Kinh đã dạy, và mười nguyện Phổ Hiền. Niệm Phật chẳng thể không hiếu thuận đối với cha mẹ, tôn kính sư trưởng, chẳng thể không có tâm từ bi, chẳng thể không tu Thập Thiện. Lấy niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới làm mục tiêu chung, gọi là "đại hạnh".
Cái Định mà Như Lai đã đạt được khi chứng quả gọi là Thủ Lăng Nghiêm Đại Định. "Mật nhân" là Lý, "Liễu Nghĩa" là Giáo, "Vạn Hạnh" là Hạnh, "Lăng Nghiêm" là Quả. Bốn thứ Giáo - Lý - Hạnh - Quả đều được bao gồm trong đề mục kinh này.
2. Phật Đảnh
Phật Đảnh là tỷ dụ, biểu thị pháp môn này thù thắng vi diệu. Đảnh đầu Phật khác với đảnh đầu người thường. Đảnh đầu Phật có một u thịt màu hồng nhô lên, có thể phóng quang, không ai thấy được, bởi thế gọi là "vô kiến đảnh tướng", đó là một trong ba mươi hai tướng hảo. Kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa như toàn thân đức Phật, kinh Lăng Nghiêm như đảnh đầu đức Phật, cho thấy kinh này viên đốn tôn diệu, là thù thắng nhất trong tất cả kinh pháp. Y theo pháp này tu hành chính là con đường thẳng hướng đến Phật.
3. Như Lai Mật Nhân
Chữ "Như Lai mật nhân" chỉ chánh nhân Phật tánh, như kinh Niết Bàn dạy: "Chánh nhân Phật tánh là Chân Như trung, chánh, lìa hết thảy tà vạy, sai trái. Y theo đó sẽ thành tựu quả đức Pháp Thân". Đây là nói về bổn tánh, ai cũng vốn có sẵn, ai nấy đều đầy đủ, chỉ có điều: phàm phu mê hoặc nên chẳng tự biết. Kinh Lăng Nghiêm chỉ ra chân bản (căn bản đúng đắn) trong hai thứ căn bản. Hai thứ căn bản: nơi phàm phu là sanh tử căn bản, do mê nên hiển hiện thành sanh tử luân hồi; nơi Phật Bồ Tát, nó trở thành Bồ Đề Niết Bàn căn bản.
Sáu căn của chúng ta đều chẳng rời ngoài nó; núi, sông, đại địa và hết thảy chúng sanh đều là nó. Những lời này nghe ra chẳng dễ hiểu được, núi sông, đại địa, nhân vật bên ngoài liên quan chi đến ta? Khi quý vị ở trong mộng cảnh, núi, sông, đại địa, người, vật từ đó mà ra. Mộng là do tâm hiện, toàn thể cái tâm biến thành mộng cảnh, chẳng phải là có vật gì từ bên ngoài vào trong mộng cả. Năng biến (chủ thể thực hiện động tác biến hiện) là tâm, sở biến (cái được biến hiện ra) là tướng hư vọng. Lúc mộng bèn có núi, sông, đại địa; lúc tỉnh, hết thảy đều chẳng có. Hết thảy tướng trạng của cảnh giới được biến hiện bởi chân tâm tựa hồ chỉ tồn tại trong một khoảnh khắc, nhưng do chúng có tướng "tương tục" (tiếp nối) nên quý vị chẳng nhận biết hiện tượng sanh diệt trong từng sát na. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật dạy A Nan hạ thủ công phu ngay trên sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Sau khi đốn ngộ mới biết sáu căn chính là nơi để chân tâm bản tánh phát khởi tác dụng, nơi mắt gọi là thấy, nơi tai gọi là nghe, nơi mũi gọi là ngửi, nơi lưỡi gọi là nếm, nơi thân gọi là đụng chạm, nơi ý gọi là biết. Thấy, nghe, hay, biết là tác dụng của chân tâm. Lúc mê vẫn khởi tác dụng, chẳng qua người ngộ rồi sẽ khởi tác dụng vĩnh viễn chẳng mê.
Nơi người mê, niệm thứ nhất là chân tâm; ví như sau cái thấy đầu tiên của mắt, trong ý niệm thứ hai bèn khởi phân biệt xen tạp xấu, tốt, thiện, ác. Đó là mê. Lìa khỏi hết thảy vọng tưởng, chấp trước, thấy nghe vẫn rõ ràng tường tận, nhưng sắc được thấy, tiếng được nghe chẳng còn phân biệt, chấp trước, chẳng khởi tâm động niệm, tức là hoàn toàn giống hệt như Phật, Bồ Tát. Lúc Phật còn tại thế, có ai hướng về Phật thưa hỏi những vấn đề họ nghĩ không ra, Phật liền lập tức đáp ứng, không phải suy nghĩ chút nào. Đó gọi là "Bát Nhã vô tri, vô sở bất tri" (Bát Nhã không biết, nhưng không gì chẳng biết). "Vô tri" là Căn Bản Trí, "vô sở bất tri" là Hậu Đắc Trí. Dùng vọng tưởng, chấp trước để nghiên cứu kinh Phật là biến Phật pháp thành thế gian pháp, vĩnh viễn chẳng thể khai ngộ được!
Chánh nhân là bổn tánh, liễu nhân là trí huệ chân thật; chân trí hoàn toàn phù hợp với chân tướng sự thật, trọn không mảy may nào sai lệch, thì mới gọi là "thật chứng". Nếu như do suy lý mà lãnh hội thì chẳng thể tin cậy được. Người ta thường cho rằng tu Thiền, tu Mật không thể không đọc kinh Lăng Nghiêm; thật ra, người tu Tịnh Độ lại càng không thể không đọc Lăng Nghiêm.
Ước chừng vào năm Dân Quốc năm mươi mốt (1962), tôi trụ tại chùa Lâm Tế ở Viên Sơn, có một ngày, có mấy sinh viên đại học Đài Loan, cùng với một giáo sư (người Nhật Bổn, giáo sư thỉnh giảng của đại học Đài Loan) đến tìm tôi đàm luận Phật pháp. Vị giáo sư đó hỏi tôi thường ngày tu pháp môn nào, tôi nói thường ngày tôi tu pháp môn Niệm Phật, chủ tu là kinh Lăng Nghiêm. Ông ta bèn hạ một câu: "Kinh Lăng Nghiêm có quan hệ chi với Tịnh Độ?" Ông ta tỏ thái độ hơi ngạo mạn, tôi vừa nghe liền biết ông ta chưa thông. Tôi hỏi ngược lại một câu: "Quán Thế Âm, Đại Thế Chí Bồ Tát có quan hệ chi với Tịnh Độ?" Hỏi vậy, ông ta không đáp được câu nào, khá là lúng túng. Hai vị Bồ Tát ấy thuộc vào Tây Phương Tam Thánh, phần kinh văn tối trọng yếu trong kinh Lăng Nghiêm là chương Quán Thế Âm Bồ Tát Nhĩ Căn Viên Thông và chương Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông.
Kinh Lăng Nghiêm có mối quan hệ mật thiết với tất cả Phật pháp Đại Thừa, bất cứ tông phái nào cũng không thể không đọc kinh Lăng Nghiêm. Văn Thù Bồ Tát chọn lấy pháp Nhĩ Căn Viên Thông là minh tuyển (chọn rõ ràng), kỳ thật, Ngài ám tuyển (tuyển ngầm) pháp Niệm Phật.
Hai mươi lăm pháp Viên Thông được trình bày theo thứ tự thuận, những pháp không được tuyển được xếp theo thứ tự thuận; những pháp được tuyển xếp ra sau cùng. Giống như ca kịch, vở nào hay nhất xếp ra sau cùng làm vở hạ màn. Trong hai mươi lăm pháp Viên Thông, có đến hai pháp được xếp vào sau chót, chẳng phải là một pháp. Nhĩ Căn đáng lẽ phải xếp thành pháp thứ nhì, lại xếp ra sau cùng. Trong Thất Đại: Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không, Kiến, Thức, pháp môn Niệm Phật của ngài Đại Thế Chí là Kiến Căn Đại. Lẽ ra, Ngài phải được xếp trước ngài Di Lặc, nhưng hiện tại, Ngài được xếp vào hạng mục hai mươi bốn, đứng sau ngài Di Lặc.
Ngài Văn Thù chọn pháp Niệm Phật vì nó khế hợp với căn cơ chúng sanh trong pháp giới, chọn pháp Nhĩ Căn Viên Thông của ngài Quán Âm vì nó khế hợp căn cơ của chúng sanh trong thế giới Sa Bà này. Tôi ở Đài Trung theo thầy Lý mười năm, chủ tu Lăng Nghiêm. Đối với pháp Niệm Phật, tôi tin tưởng sâu xa, chẳng nghi là do nhờ kinh Lăng Nghiêm nên mới hoàn toàn liễu giải.
4. Tu Chứng Liễu Nghĩa
"Do tín khởi quán" gọi là "tu", lấy quán hạnh làm Tu, chẳng phải là lấy việc trải đủ mọi sự làm Tu. Lấy giải ngộ làm Chứng, chứ chẳng phải trải qua các địa vị để thủ chứng. Nhà Thiền gọi Quán là "quán chiếu", sáu căn tiếp xúc với cảnh giới bên ngoài nhưng chẳng mê thì gọi là "quán chiếu"; chẳng khởi tâm động niệm phân biệt, chấp trước gọi là Quán. Có thiện ác, thị phi, lấy - bỏ thì chẳng phải là Quán. Chẳng phải là do trải qua các địa vị tiến lên từng nấc mà tu được, cứ hễ tu hành đạt đến một tiêu chuẩn nhất định bèn khởi tác dụng, liền đạt được hai thứ thù thắng:
- Một là trên có cùng một từ lực với chư Phật, lực dụng lớn nhất là cứu hộ hết thảy chúng sanh, trừ được hết thảy não hại cho bản thân.
- Hai là dưới cùng một bi ngưỡng với chúng sanh, có năng lực tự nhiên có thể cảm ứng đạo giao với hết thảy hữu tình chúng sanh trong mười pháp giới.
Phật, Bồ Tát có năng lực cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn, năng lực ấy là do chứng Liễu Nghĩa mà được. Tuy nói là "được", nhưng thật ra, đó chính là tác dụng của đức năng vốn sẵn có đủ nơi tự tánh. Tánh đức phải nhờ vào Tu đức mới có thể hiển hiện.
Phát ra ba tác dụng thì:
a) Điều thứ nhất là Tam Thập Nhị Ứng (ba mươi hai thân ứng hóa). Tam thập nhị ứng chỉ là cách phân loại tổng quát. Phàm phu thường hiểu lầm, cho rằng Phật, Bồ Tát có tướng mạo nhất định, có người hỏi Quán Thế Âm Bồ Tát là nam hay nữ, người hỏi như vậy nhất định chỉ hiểu biết Phật pháp hời hợt. Người chân chánh chứng đắc "tu chứng liễu nghĩa" thì không có tướng mạo nào để nói được, có thể tùy theo từng loài mà hóa thân, đáng nên dùng thân nào để độ được kẻ ấy thì sẽ hiện thân đó để thuyết pháp. Phật, Bồ Tát không vọng tâm, vọng niệm, phân biệt, chấp trước; thuận theo tâm chúng sanh, ứng theo sự hiểu biết của họ, Phật, Bồ Tát có thể hiện các thân. Nơi thiên đường, địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, các ngài đều có thể hiện thân đồng loại. Chúng ta cũng có năng lực đó, vì tự tánh mê nên năng lực ấy bị mất đi. Trong Phật pháp, bất luận tu hành theo tông phái nào, mấu chốt của việc tu hành đều là Thiền Định, tức là tu tâm thanh tịnh.
b) Thứ hai là Thập Lực Vô Úy (mười lực không sợ hãi), bao gồm hết thảy pháp thế gian, xuất thế gian đều thông đạt, hiểu rõ mọi lẽ, trong bất cứ trường hợp nào cũng chẳng hề có tâm kinh sợ. Lúc Phật tại thế, bất cứ vấn đề nào, Ngài cũng đều có thể giải đáp tường tận, không ai bắt bí được Ngài. Có kẻ cho rằng bậc học rộng chưa chắc đã biết rành những chuyện nhỏ nhặt, vặt vãnh; có kẻ hỏi Phật về vấn đề chăn trâu, Phật cũng dạy cho người ấy cách thức, trong Đại Tạng Kinh có một bài kinh mang tên là Mục Ngưu Kinh (kinh Chăn Trâu).
c) Thứ ba là Tứ Bất Tư Nghị (bốn thứ chẳng thể nghĩ bàn), cũng là một trong ba thứ tác dụng phát khởi sau khi đã tu chứng liễu nghĩa. Với tình huống này, khi tu hành đạt đến mức độ tương đương sẽ tự nhiên có, chẳng cần phải cầu. Ghi chú: "Tứ Bất Khả Tư Nghị" là thuật ngữ nhà Phật, tức là chư Như Lai có bốn sự chẳng thể nghĩ bàn, Tiểu Thừa chẳng thể biết được nổi. Một là thế giới chẳng thể nghĩ bàn, hai là chúng sanh chẳng thể nghĩ bàn, ba là rồng chẳng thể nghĩ bàn, bốn là cõi Phật cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.
Dùng Căn chẳng dùng Thức, chọn Nhĩ Căn làm liễu nghĩa bậc nhất trong các liễu nghĩa. Chúng sanh căn tánh bất đồng, pháp môn tu hành trong kinh Lăng Nghiêm chia thành hai mươi lăm loại lớn, ngài Văn Thù quán sát căn tánh của người thế gian, trong sáu căn, căn Tai thông lợi nhất. Lúc Phật tại thế, trong bốn mươi chín năm giáo hóa chúng sanh, toàn là giảng kinh cho đại chúng nghe. Vào thời đại Xuân Thu, Khổng Phu Tử cũng phải dùng cách giảng thuyết giáo học để chỉ dạy hàng đệ tử.
Bởi thế, lúc ngài Văn Thù tuyển chọn pháp môn, dạy chúng ta dùng lục căn, chẳng dùng lục thức, đặc biệt chọn lấy Nhĩ Căn vì nó khế hợp nhất đối với căn cơ của chúng sanh. Người thời cổ thật thà, tôn sư trọng đạo, đối với lời thầy tin tưởng sâu xa chẳng nghi ngờ. Người hiện tại chẳng bằng cổ nhân, đối với lời nói của bất cứ ai cũng đều hoạnh họe, cho nên sở học cả một đời của con người hiện tại chỉ là tri thức, chứ chẳng phải là trí huệ. Trí huệ và tri thức khác nhau rất xa, quý vị chú tâm nghiên cứu Lục Tổ Đàn Kinh [sẽ thấy]: Lục Tổ chưa hề đọc sách, nhưng sau khi khai ngộ, bất cứ sự việc thế gian hay xuất thế gian nào Ngài đều thông đạt cả. Trí huệ của Ngài là do sau khi khai ngộ mà thành, có thể nói là "tu một thứ là tu hết thảy" vậy.
Từ tánh khởi tu chẳng có giai đoạn, tu một thứ là tu hết thảy. Nhĩ Căn đối ứng Nhĩ Thức, chẳng dùng Nhĩ Thức mà dùng Nhĩ Căn để nghe tánh, tại mắt thì dùng Nhãn Căn để thấy tánh. Vấn đề nan giải hiện thời là giữa "tánh nghe" và "nhĩ thức" có khác biệt gì? Phải biết thì mới có thể học được.
Theo Duy Thức Học, tác dụng của thức thứ sáu là phân biệt, tác dụng của thức thứ bảy là chấp trước, tác dụng của thức thứ tám nói theo cách bây giờ là ghi nhớ, trong kinh Phật gọi là "chứa đựng chủng tử". Phật dạy chúng ta bỏ Thức, sử dụng tánh của Căn. Tánh khác với Thức; Tánh không phân biệt, chấp trước, chẳng vướng mắc ấn tượng. Ví như tấm gương chiếu mọi vật rõ rệt, rành rẽ, nhưng trọn chẳng giữ lại bóng dáng. Còn Thức như máy chụp hình, trong máy có phim, giữ lại hình ảnh. Tách rời hết thảy mọi phân biệt, chấp trước, vạn pháp quyết định bình đẳng thì tâm mới thanh tịnh, tâm thanh tịnh gọi là "liễu nghĩa".
Hiện thời, ta chọn dùng phương pháp Niệm Phật của Đại Thế Chí Bồ Tát, Phật hiệu từ tâm sanh ra, từ miệng niệm ra, tai lại nghe lấy, cũng có mối liên quan mật thiết đối với pháp Nhĩ Căn Viên Thông. Dùng cách niệm này, nhiếp tâm dễ dàng. Nếu tịnh niệm tiếp nối thì chính là Niệm Phật Tam Muội. Công phu cạn gọi là "thành phiến", công phu sâu gọi là "nhất tâm bất loạn".
5. Chư Bồ Tát Vạn Hạnh
Duyên nhân trợ tu. Duyên là Tăng Thượng Duyên, lục độ vạn hạnh hỗ trợ chúng ta tu học. Trong Viên Giáo, Thập Tín hoàn toàn không có địa vị bởi lẽ lúc tiến, lúc lùi. Sơ Địa Bồ Tát trong Đại Thừa Phật pháp bèn chứng ba thứ bất thoái, thật sự là đệ tử Phật. Hàng Bồ Tát thuộc địa vị Thập Hạnh tu lục độ vạn hạnh nhằm mục đích đào thải những tập khí của chính mình từ vô thỉ kiếp đến nay. Chẳng hạn như bố thí để đoạn sạch tập khí keo bẩn, tập khí keo bẩn của chính mình bị đoạn sạch hoàn toàn chính là tu hành viên mãn. Thập Hồi Hướng là quay Phật sự hướng về Phật tâm, tâm Phật là tâm của chính mình. Hết thảy những việc tu dưỡng của mình nhằm để minh tâm kiến tánh, hiển phát tự tánh, tánh thể, tánh đức, tánh lượng; hồi hướng Thật Tế, hồi hướng Bồ Đề, hồi hướng chúng sanh.
Sau khi viên mãn địa vị Tam Hiền (Thập trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng) bèn có Tứ Gia Hạnh (4), sau khi tu viên mãn liền đăng địa. Tứ Gia Hạnh là bốn phương pháp tu hành, với mục đích nhằm diệt mất cả tâm lẫn Phật, diệt sạch số lượng, khiến cho tâm đạt đến chỗ thanh tịnh, diệt sạch hết thảy ý niệm. Nếu trong tâm vẫn còn có Phật hoặc còn những số lượng khác, thì vẫn là còn có một vật, tâm vẫn chưa thanh tịnh. Tâm thanh tịnh mới có thể đăng địa. Phải đăng địa rồi mới có thể hiển xuất Chân Như Phật Tánh.
Đẳng Giác Bồ Tát vẫn còn một phẩm Sanh Tướng vô minh, phải đến khi phá sạch rồi mới đạt đến địa vị Diệu Giác, tự tánh hoàn toàn hiển lộ thì gọi là thành Phật. Công phu, hạnh nghiệp của hành nhân viên đốn cốt yếu tại lúc Sơ Phát Tâm, cho nên nói: "Sơ phát tâm liền thành Chánh Giác". Về Lý thì đúng, nhưng trên mặt Sự, phiền não tập khí chưa đoạn.
Sau khi đạt địa vị Càn Huệ mới có thể tùy ý vào trong biển trang nghiêm mầu nhiệm của Như Lai. Càn là giống như nước khô cạn, Phật pháp coi tham ái như nước, ví nóng giận như lửa. Càn tức là chẳng có thất tình (5), ngũ dục. Nước ái đã khô cạn, trí huệ liền hiện tiền, đã đạt cảnh Tam Không (6). Càn Huệ nằm trong khoảng giữa từ Thập Tín cho đến Sơ Trụ, đợi đến sau khi phá được một phần vô minh, liền chứng địa vị Sơ Trụ, bèn thành Pháp Thân đại sĩ, sau đấy bèn mặc tình tự nhiên tương ứng với pháp tánh, vào trong biển trang nghiêm mầu nhiệm của Như Lai, chẳng bị thoái chuyển. Vận dụng cả Chỉ lẫn Quán nên còn gọi là "Diệu Thiền Na".
Trong kinh này, Ngài A Nan cho biết Ngài đã liễu giải ba thứ Định là Xa Ma Tha, Tam Ma Địa và Thiền Na. Ba thứ Định ấy là ba giai đoạn trong quá trình tu học, nhưng đối với tu hành đại định viên mãn, A Nan vẫn chưa biết. Phật dạy ngoài ba thứ Định ấy ra, còn có một thứ đại định viên mãn gọi là Thủ Lăng Nghiêm Đại Định, là thứ Định Như Lai chứng được nơi quả vị. Những thứ Định khác Bồ Tát chứng được, Xa Ma Tha La Hán cũng có thể chứng, Bồ Tát còn chứng được Tam Ma Địa và Thiền Na.
6. Thủ Lăng Nghiêm
Đức Phật dùng chữ Thủ Lăng Nghiêm để hình dung hết thảy sự rốt ráo kiên cố. Vạn sự, vạn pháp dù là thế gian hay xuất thế gian đều có biến hóa, ngay đến cả Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng chẳng phải là ngoại lệ. Bản tánh chân tâm của chính mình là rốt ráo kiên cố, tự tánh là Năng Biến, vạn pháp là Sở Biến, hết thảy hiện tượng là Sở Biến. Năng Biến là chân, Sở Biến là huyễn hóa.
Vũ trụ được sanh ra như thế nào, sanh mạng bắt nguồn như thế nào, các nhà khoa học, triết học trên toàn thế giới tìm chẳng ra. Nếu như thế gian tìm được câu trả lời, Phật đã chẳng cần phải đến thế gian này! Lời Phật dạy thật chẳng dễ gì hiểu được. Đức Phật bảo tất cả hiện tượng "đương xứ xuất sanh, đương xứ diệt tận" (tạm hiểu là: Sanh ra ngay từ nơi này, diệt mất ngay nơi này). Đấy là lời thật, tất cả hiện tượng sanh từ tâm tưởng. Bài Chứng Đạo Ca của Vĩnh Gia đại sư có câu:
Mộng lý minh minh hữu lục thú,
Giác hậu không không vô đại thiên.
(Tạm dịch:
Trong mộng, sáu đường vằng vặc có,
Giác rồi, tam giới rỗng toang hoang.)
Sâm la vạn tượng do tâm tưởng sanh, sau khi khai ngộ, sẽ minh bạch hoàn toàn chân tướng sự thật. Kinh Pháp Hoa nói: "Tướng thế gian thường trụ", nghĩa là chẳng có sanh diệt, cũng chẳng có ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai. Chúng ta thấy rõ con người có sanh lão bệnh tử, thực vật có sanh trụ dị diệt, khoáng vật có thành trụ hoại không, mọi sự đều đổi dời, sao lại nói "chẳng có sanh diệt"? Trong tâm có ý niệm, có tiền niệm, có hậu niệm, niệm niệm nối tiếp nhau chẳng ngừng, hết thảy hiện tượng đều là từ tâm tưởng tiếp nối mà sanh ra, nhưng lời nói chân thật này chúng ta nghe chẳng hiểu.
Thất thú (bảy đường) là ngoài lục thú (trời, người, a tu la, súc sanh, địa ngục, ngạ quỷ), còn kể thêm tiên đạo. Ngũ Ma là do chúng ta có Ngũ Ấm, kinh Lăng Nghiêm nói có năm mươi thứ Ấm Ma, chướng ngại thân tâm chúng ta tu trì. Nếu quý vị hiểu được chúng sẽ chẳng bị chúng gây chướng ngại nữa.
"Xa Ma Tha, Tam Ma Địa, Thiền Na" là do mức độ tâm thanh tịnh sai khác mà giả đặt danh xưng. Chẳng hạn như, tâm thanh tịnh bị nhiễm ô mười phần mà khử được hai ba phần thì gọi là Xa Ma Tha; trừ được sáu bảy phần gọi là Tam Ma Địa; trừ được tám chín phần gọi là Thiền Na. Trừ sạch cả mười phần gọi là Thủ Lăng Nghiêm. Một phần thanh tịnh được một phần công đức, cho đến khi rốt ráo viên mãn thì chính là "Thủ Lăng Nghiêm rốt ráo kiên cố".
Giao Quang đại sư là người đời Minh, cùng thời đại với đại sư Liên Trì, cũng tu niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Ngài viết một bản sớ giải mang tên Lăng Nghiêm Kinh Chánh Mạch, giải thích kinh Lăng Nghiêm khác với cách cổ đức giảng giải. Phần trước tôi đã từng nhắc đến: khi Trí Giả đại sư phát minh thuyết "Tam Chỉ Tam Quán", có vị cao tăng từ Ấn Độ đến Trung Hoa gặp mặt Trí Giả Đại Sư, cho là thuyết Tam Chỉ Tam Quán của đại sư rất giống với phương pháp tu hành trong kinh Lăng Nghiêm. Do đấy, về sau học giả các đời đều đem thuyết Chỉ Quán của ngài Thiên Thai phối hợp với ba thứ định trong kinh Lăng Nghiêm, coi Xa Ma Tha là Chỉ, Tam Ma Địa là Quán, Thiền Na là Chỉ Quán bất nhị, dùng Tam Chỉ Tam Quán để phụ họa kinh Lăng Nghiêm.
Giao Quang đại sư phản bác cựu thuyết, cho rằng Tam Chỉ Tam Quán là dùng ý thức để tu tâm, còn kinh Lăng Nghiêm dùng tánh của căn để tu, phát huy huyền nghĩa chân chánh của kinh Lăng Nghiêm. Lúc Ngài viết chú sớ, mắc bệnh một trận, thấy A Di Đà Phật đến tiếp dẫn Ngài vãng sanh. Ngài thưa cùng A Di Đà Phật: "Chú giải từ cổ đến nay đều chưa phát huy được huyền nghĩa chân chánh của kinh Lăng Nghiêm, con nay đang soạn chú giải kinh Lăng Nghiêm, con muốn soạn xong rồi mới đi", Phật bèn chấp thuận.
Ngài giải thích Lăng Nghiêm Đại Định là Tánh Định, ngài giảng như sau:
- Đây là diệu định, đúng là tánh vốn tự có đủ, thiên nhiên bất động, chẳng cần phải nhọc công tu thành. Bổn tánh của chúng sanh chưa từng mất đi, chân tâm bất động, nhận lầm mê tình là chân tâm, tức là nhận giặc làm con. Giác là bất động, mê là động. Đấy gọi là diệu định.
- Đây là viên định, phần trên đã nói qua, vạn pháp không gì chẳng phải là Thật Tướng, đều vốn sẵn bất động.
- Đây là đại định, hết thảy phàm phu không ai là chẳng vậy. Tâm Phật chẳng động, tâm ta cũng chẳng động. Kinh Lăng Nghiêm có một đoạn kinh văn rất dài nói về thấy rõ mười phương: Tánh Thấy của chúng ta chẳng động, tánh Thấy chẳng mê, chẳng đến, chẳng đi, chẳng sanh, chẳng diệt, tức là bổn tánh. Nhãn Thức động, tánh Thấy chẳng động. Sau khi giải ngộ phải tu hành để đào thải cho sạch hết vọng tưởng tập khí thì toàn thể đại dụng của tánh đức mới có thể hiện hữu hoàn toàn, lòng tin chẳng thể lay động, đối với việc niệm Phật vãng sanh quyết định chẳng còn ngờ vực gì.
7. Kinh (lược đi không giảng)
Ghi chú:
Pháp Sư giảng kinh mấy mươi năm, mỗi lần giảng đề mục kinh đều giảng chữ kinh, các đệ tử nghe giảng thường đều đã biết rành, nên giảng đến chữ Kinh, Pháp Sư bèn lược đi không nhắc đến nữa, nhưng cũng không hiếm người mới nghe băng giảng kinh này là lần đầu, nên chúng tôi thuyết minh đơn giản, những chỗ nào cần mà bị lược đi, bèn ghi bổ sung vào.
Chữ Kinh là tên chung, chữ Kinh tiếng Phạn gọi là Tu Đa La, dịch sang tiếng Tàu là Khế Kinh. Khế nghĩa là trên khế hợp với Lý đức Phật đã chứng, dưới là phù hợp căn cơ chúng sanh được độ. Chữ Kinh gồm bốn nghĩa: Quán, Nhiếp, Thường, Pháp.
- Quán là xuyên suốt nghĩa lý được nói trong toàn kinh, tạo thành giáo nghĩa có hệ thống, như dùng một sợi chỉ để xâu các hạt ngọc lại.
- Nhiếp là nhiếp trì chúng sanh căn cơ đáng độ. Thiện căn của chúng sanh đã thành thục, vừa nghe kinh này bèn có thể tin nhận phụng hành.
- Thường là thường trụ bất biến, muôn đời luôn mới mãi, bất cứ thời đại nào cũng đều thích ứng, phổ độ chúng sanh.
- Pháp là pháp tắc, quy củ. Trên dưới xưa nay đều nên tuân theo, chiếu theo, y giáo phụng hành, đều có thể đắc độ.
II. Giải thích đề mục chương Viên Thông
Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương
Đại Thế Chí là người khải giáo, [chỉ bày] giáo pháp Niệm Phật tu Tịnh Độ. Hai mươi lăm vị Bồ Tát mỗi vị [dạy một pháp môn] khác nhau, Đại Thế Chí dạy chúng ta chuyên tu pháp môn Niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ. Ngài là Sơ Tổ của Tịnh Tông.
Trong cuốn Tịnh Tông Tiệp Yếu, lão cư sĩ Hạ Liên Cư là người đầu tiên đề xướng Đại Thế Chí Bồ Tát là Sơ Tổ Tịnh Tông, trong hư không đề xướng pháp môn Niệm Phật chỉ có Đại Thế Chí Bồ Tát. Một câu A Di Đà Phật niệm đến cùng cực, từ sơ phát tâm cho mãi đến khi thành Phật chẳng thay đổi, thành Phật rồi vẫn niệm A Di Đà Phật, trong mười phương thế giới rộng độ chúng sanh cũng vẫn dùng một câu A Di Đà Phật, xưng là Tịnh Tông Sơ Tổ quả là danh xứng với thật. Dùng tâm niệm Phật nhập Vô Sanh Nhẫn. Nói thông thường, Thất, Bát, Cửu Địa Bồ Tát của Viên Giáo mới chứng được Vô Sanh Nhẫn.
"Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối" hai câu này là phương pháp niệm Phật. "Chẳng nhọc phương tiện, tự được tâm khai": Chẳng cần mượn bất cứ phương pháp nào để hỗ trợ, "tâm khai" là như Thiền Tông nói đại triệt đại ngộ và như Mật Tông bảo là Tam Mật Tương Ứng hay Tức Thân Thành Phật. "Tự được tâm khai" là Lý Nhất Tâm Bất Loạn, "nhập Tam Ma Địa" là chứng đắc Thủ Lăng Nghiêm đại định.
Hai vị đại Bồ Tát Đại Thế Chí và Quán Thế Âm hiện đang sống trong Sa Bà thế giới, nhiếp thủ người niệm Phật chẳng bỏ, khiến họ lìa tam đồ, được sanh về Tịnh Độ. Niệm Phật là phương pháp, có trí tuệ mới có thể niệm Phật. Người thông minh trong thế gian chưa hẳn đã có trí huệ, thông minh là thế trí biện thông, là một trong tám nạn, bất cứ nạn nào trong tám nạn cũng đều có thể chướng ngại tu đạo, chướng ngại xuất tam giới, chướng ngại liễu sanh tử, thoát luân hồi, thành Phật đạo. Tánh thể trọn khắp là Viên, diệu dụng vô ngại là Thông. Lại nữa, Lý Diệu Trí để chứng gọi là Viên Thông. Dùng phương pháp Niệm Phật có thể đạt đến cảnh giới Viên Thông.
III. Giải Thích Kinh Văn
Chánh kinh:
Đại Thế Chí pháp vương tử, dữ kỳ đồng luân, ngũ thập nhị Bồ Tát, tức tùng tòa khởi, đảnh lễ Phật túc, nhi bạch Phật ngôn:
Đại Thế Chí pháp vương tử cùng những với năm mươi hai vị Bồ Tát đồng chí hướng với Ngài, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, mà bạch Phật rằng:
Kinh Tư Ích chép: "Nơi ta (Đại Thế Chí Bồ Tát tự xưng) đặt chân, chấn động tam thiên đại thiên thế giới và cung điện ma, nên tên là Đại Thế Chí". Kinh Tư Ích nói đầy đủ là Tư Ích Phạm Thiên Sở Vấn Kinh.
Danh hiệu Đại Thế Chí Bồ Tát là do oai thế của Bồ Tát mà kiến lập, trong Tây Phương Tam Thánh, Ngài tượng trưng cho trí huệ. Trí huệ viên mãn rốt ráo mới có oai đức tối thù thắng, oai đức ấy có thể chấn động tam thiên đại thiên thế giới, cũng như chấn động cung điện ma. Quán Kinh nói: "Lúc vị Bồ Tát này đi, mười phương thế giới hết thảy chấn động. Lúc vị Bồ Tát này ngồi, cõi nước bảy báu đồng thời lay động", nghĩa là nói oai đức, trí huệ của Bồ Tát từa tựa như kinh Tư Ích. Đấy đều là nói về phương diện tự lợi của Bồ Tát.
Kinh Bi Hoa nói: "Nguyện thế giới của tôi giống như thế giới của Quán Thế Âm, giống hệt không khác". Bảo Tạng Phật nói: "Do ông nguyện lấy đại thiên thế giới, ta nay đặt tên ông là Đắc Đại Thế". Đấy là nói về đại nguyện của Bồ Tát.
Trong kinh Phật có nói, trong tương lai A Di Đà Phật ở Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng có lúc bát Niết Bàn, thời gian ấy lâu phi thường. Phật nói là giả sử chúng sanh trong mười phương thế giới đều chứng đắc Bích Chi Phật, đều có đại thần thông như Mục Kiền Liên, suốt trọn vạn ức năm cũng chẳng tính nổi thọ mạng của Phật A Di Đà. Thế giới Cực Lạc kỳ diệu phi thường, chẳng hề có những thời kỳ Chánh Pháp, Tượng Pháp, Mạt Pháp và Diệt Pháp. Sau khi Phật A Di Đà nhập diệt, Quán Thế Âm ngay lập tức thành Phật tiếp nhiệm; Quán Thế Âm nhập diệt, Đại Thế Chí liền tiếp nối thành Phật.
Nếu có kẻ hoài nghi: Phật cũng nhập diệt, ta sanh về đó làm chi? Nói "nhập diệt" nghĩa là Ứng Thân nhập diệt, chứ Pháp Thân bất sanh bất diệt, Báo Thân hữu sanh vô diệt. Trong Phàm Thánh Đồng Cư Độ và Phương Tiện Hữu Dư Độ, thấy được Ứng Thân Phật A Di Đà, trong Thật Báo Trang Nghiêm Độ thấy được Báo Thân, trong Thường Tịch Quang Tịnh Độ thấy được Pháp Thân. Trong kinh, đức Thế Tôn thường nói: phàm phu tu thành Phật Quả phải tu ba đại a-tăng-kỳ kiếp, sanh về Tây Phương liền được vô lượng thọ, cho nên chẳng cần sợ A Di Đà Phật nhập diệt.
Quán kinh nói: "Dùng trí huệ quang chiếu khắp hết thảy, khiến lìa tam đồ, đắc vô thượng lực", tức là nói về phương diện dùng lòng từ bi lợi tha. Kinh Lăng Nghiêm nói Đại Thế Chí có ba đức lớn, tức là niệm Đại Thế Phật (thượng cầu), nhiếp thủ vọng niệm nơi sáu căn (trung tu), tiếp độ người niệm Phật (hạ hóa). Đầy đủ ba đức này, oai đức đến cùng cực, nên gọi là Đại Thế Chí. Đại Thế Phật chính là A Di Đà Phật. Cách tu hành của ngài Đại Thế Chí là dùng "tịnh niệm tiếp nối", một câu Phật hiệu niệm đến rốt ráo, hết thảy những người niệm Phật cầu sanh Cực Lạc thế giới trong mười phương thế giới đến lúc lâm chung, Ngài và A Di Đà Phật cùng đến tiếp dẫn. Oai thần, trí lực của Ngài trong tất cả các Bồ Tát không có ai cao hơn được nên xưng là Chí.
"Pháp vương tử" là danh hiệu của vị Bồ Tát bổ xứ, giống như Thái Tử trong thế gian, Ngài là hậu bổ Phật (vị Phật sẽ kế nhiệm sau này). Vị hậu bổ Phật thứ nhất là Quán Thế Âm, Ngài là vị hậu bổ Phật thứ hai. Câu Phật hiệu chứa đựng ý nghĩa sâu xa phi thường, đạt đến chót đỉnh của mọi oai đức, thế lực thế gian lẫn xuất thế gian. Tự tánh vốn sẵn có đủ trí huệ, Lục Tổ nói: "Nào ngờ tự tánh vốn là sẵn có". Vốn có sẵn đủ nên gọi là "tánh cụ" hay là "tánh đức". Vì phàm phu mê mất nên Tánh Đức phải nhờ vào Tu Đức mới có thể hiển lộ, Tánh Đức có hiển thị đến mức viên mãn rốt ráo thì mới thật sự thành Phật. Ngài Đại Thế Chí dùng phương pháp Tu Đức nào để hiển lộ Tánh Đức? Chính là niệm A Di Đà Phật, do đây biết một câu danh hiệu này công đức chẳng thể nghĩ bàn.
"Đồng luân" nói theo cách bây giờ là "đồng chí". Đồng chí trong thế gian là hữu danh vô thực, đối với điều này, cổ nhân đã lập nghĩa nhất định: bạn đồng học gọi là "bằng", người cùng chí hướng với mình gọi là "hữu". Là đồng chí thật sự thì phải tâm đồng, nguyện đồng, giải đồng, hạnh đồng! Kinh Hoa Nghiêm nói đến tám mươi bốn thứ đồng, hoặc tám mươi tám thứ đồng, rất tỉ mỉ. Đại Thế Chí và A Di Đà Phật hoàn toàn tương đồng, trong mười phương thế giới, phàm những ai phát tâm niệm Phật đều là "đồng luân" của ngài Đại Thế Chí cả.
"Năm mươi hai" là chữ dùng để phân biệt thứ loại: Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác; tổng cộng năm mươi hai giai đoạn, từ sơ phát tâm thẳng đến khi thành Phật chẳng biến cải; hết thảy người tu pháp môn niệm Phật đều có thể gọi là Đại Thế Chí Bồ Tát, đều là đồng luân của Đại Thế Chí Bồ Tát.
Pháp môn bình đẳng chẳng có cao thấp, do phù hợp căn cơ nên pháp nào cũng tốt. Nhưng con người phần nhiều chẳng phải là căn tánh thông lợi, chỉ e sự nhiều công ít, khó thể thành công. Chỉ có pháp môn Niệm Phật này ai cũng có thể niệm được, đi, đứng, nằm, ngồi đều có thể niệm được, thời thời khắc khắc chẳng gián đoạn, giúp chúng ta siêu xuất sanh tử luân hồi, bởi thế, người niệm Phật đều có trí huệ chân thật vô thượng.
* Thập Tín: Mọi người nói chung đối với chuyện vì sao phải học Phật, vì sao phải cầu thành Phật chẳng hiểu rõ lắm. Phật là chân tâm của chính mình, mà cũng là bổn tánh của chính mình. Thành Phật là thành tựu trí huệ viên mãn của tánh đức. Phật chính là tâm, vốn sẵn có đủ vạn đức, vạn năng. Kinh Kim Cang dạy: "Lòng tin thanh tịnh bèn sanh Thật Tướng". Do lòng tin trong sạch mức độ khác nhau nên mới có mười giai đoạn (Thập Tín), tu mãn địa vị Thập Tín sẽ nhập Sơ Trụ, Sơ Trụ là bước đầu của Đại Thừa.
* Thập Trụ: trụ trong tam muội, tức là trụ trong thanh tịnh - bình đẳng - giác, luôn gìn giữ chân tâm thường trụ, chẳng bị thoái chuyển. Quán Thật Tướng Phật chính là nhìn vào tự tánh. Lục Tổ nói: "Nào ngờ tự tánh có thể sanh ra vạn pháp". Tánh đức của Ngài tỏ lộ, liền tự hiểu rõ chân tướng của nhân sanh, vũ trụ.
* Thập Hạnh: Hạnh là pháp môn Niệm Phật, chỉ niệm một câu Phật hiệu, dùng pháp khó tin dễ hành để độ người niệm Phật. Công phu niệm Phật càng sâu, càng thể hội được việc niệm Phật.
*Thập Hồi Hướng: Xoay niệm hướng về tâm Phật, tất cả hết thảy công đức hồi hướng về Phật tâm, thông thường hồi hướng ba nơi:
a. Hồi hướng Thật Tế: Thật Tế chính là chân tướng sự thật.
b. Hồi hướng Bồ Đề: Bồ Đề là trí huệ chân thật.
c. Hồi hướng chúng sanh: sau khi chính mình đã thành tựu, vẫn còn bao người mê mất tự tánh, hy vọng họ thảy đều giác ngộ.
"Hồi hướng" là đem hết thảy công đức mình đã tích lũy, chẳng cần đến nữa, đem cho hết thảy chúng sanh. Đấy chính là phá Ngã Chấp, lợi ích của việc hồi hướng chính là phá Nhị Chấp.
* Thập Địa: Địa tức là Phật địa. Hồi hướng viên mãn bèn nhập Phật địa, rất gần với Phật, địa vị mình chứng được rất gần với quả vị Phật. Đẳng Giác chính là bằng với quả Phật viên mãn. Niệm Phật là công đức ngay trên quả vị Như Lai. Người niệm Phật là thượng thượng nhân, cũng là hoa phân-đà-lợi (hoa sen trắng) trong loài người.
Chánh kinh:
Ngã ức vãng tích, hằng hà sa kiếp, hữu Phật xuất thế, danh Vô Lượng Quang. Thập nhị Như Lai, tương kế nhất kiếp, kỳ tối hậu Phật, danh Siêu Nhật Nguyệt Quang.
Con nhớ xưa kia trong hằng hà sa kiếp, có Phật xuất thế, tên là Vô Lượng Quang. Mười hai vị Như Lai nối tiếp nhau [xuất hiện] trong một kiếp. Đức Phật sau cùng tên là Siêu Nhật Nguyệt Quang.
Đại Thế Chí Bồ Tát bảo cho chúng ta biết về sư thừa của Ngài, trong vô lượng kiếp trước có một đức Phật, tên là Vô Lượng Quang. Có mười hai vị Như Lai nối tiếp nhau xuất thế trong một kiếp. Kinh Vô Lượng Thọ, chương hai mươi lăm có nói: "A Di Đà Phật, quang minh tốt lành, sáng hơn mặt trời, mặt trăng ngàn vạn ức lần, ấy tôn quý nhất trong các quang minh, là vua trong các Phật. Vì thế, Vô Lượng Thọ Phật còn có tên là Vô Lượng Quang Phật".
Nói trên mặt Lý, Phật Phật đạo đồng, tuyệt chẳng có cao thấp, xưng tụng là "tôn quý nhất trong các quang minh, là vua trong các Phật" tựa hồ giáo nghĩa mâu thuẫn nhau? Nên biết rằng, luận trên mặt Lý là bình đẳng, nhưng trên mặt Sự lại chẳng bình đẳng. Sau khi thành Phật chứng quả, do lúc ban đầu khi tu nhân phát nguyện sai khác, nên về mặt tướng, chư Phật chẳng thể sánh bằng Phật A Di Đà. Chư Phật thấy A Di Đà Phật phát ra bốn mươi tám nguyện, thành quả là thế giới Cực Lạc trang nghiêm, đương nhiên nhất trí ủng hộ, khen ngợi, đều muốn giúp A Di Đà Phật tiếp dẫn chúng sanh trong mười phương thế giới sanh về thế giới Cực Lạc, bất tất phải mở riêng trường phái. Kinh Vô Lượng Thọ còn nêu danh xưng của mười hai Như Lai, lược nói như sau:
1. Vô Lượng Quang Phật tiêu biểu chân trí huệ.
2. Vô Biên Quang Phật, tiêu biểu giải thoát bình đẳng nhất như.
3. Vô Ngại Quang Phật, tiêu biểu "thể tịch, dụng diệu" tự tại: Thể tánh thanh tịch, tịch tĩnh; "dụng diệu" là khởi tác dụng mầu nhiệm tự tại. "Thể tịch" là tánh không, "dụng diệu" là diệu hữu.
4. Vô Đẳng Quang Phật, là do tâm đại bi kiến lập, dẹp nỗi khổ cho chúng sanh không ai có thể sánh bằng.
5. Trí Huệ Quang Phật, trừ bụi nhơ vô minh, ban cho lợi ích chân thật. Chỉ có trí huệ chân chánh mới phá được vô minh, vô minh là hồ đồ, tự mình khi mê, khi ngộ. Do vậy cũng có thể quán sát, thời thời khắc khắc giúp đỡ người khác, niệm niệm lợi ích chúng sanh, tức là trí huệ. Lợi ích chân thật là khuyên người niệm Phật, sau khi vãng sanh tất cả vô minh đều phá sạch.
6. Thường Chiếu Quang Phật: Giống như chư Phật phóng quang, chiếu khắp pháp giới. Thường quang của Phật A Di Đà chiếu khắp pháp giới, tịch nhưng thường chiếu. Tịch là tâm thanh tịnh. Chiếu là tâm bình đẳng mà cũng là tâm đại từ bi. Niệm niệm muốn phổ độ chúng sanh nhưng tâm không nhiễm trước.
7. Thanh Tịnh Quang Phật là ba nghiệp chẳng nhiễm, quyết chẳng chấp trước, biến phước đức thành công đức, dùng tâm thanh tịnh tu phước đức, chẳng hạn như tu Bố Thí có thể đạt đến "tam luân không tịch" (7), lại còn thực hiện hạnh ấy một cách vô cùng tích cực.
8. Hoan Hỷ Quang Phật: Từ là làm cho an lạc, làm cho hết thảy chúng sanh an lạc.
9. Giải Thoát Quang Phật, lìa tướng mà lợi ích khắp tất cả, cả Tiểu lẫn Đại Thừa đều bàn đến. Giải là muôn vàn gút mắc trong tâm đều tháo gỡ cả. Tiểu Thừa chỉ đoạn được Kiến Tư mà ra khỏi tam giới; Đại Thừa ngoại trừ Kiến Tư, còn có Trần Sa, Vô Minh.
10. An Ổn Quang: ý nghĩa gần giống với chữ Thủ Lăng Nghiêm, có nghĩa là hết thảy rốt ráo kiên cố, lìa tướng sanh diệt. Có sanh diệt là chẳng an ổn. Nói trên mặt Lý, chân tâm bổn tánh chẳng sanh chẳng diệt, ai ấy đều có đủ; phàm phu tuy có nhưng không dùng được, có ý niệm sanh diệt bèn bị chướng ngại, bị luân hồi oan uổng trong lục đạo.
Mười thứ quang minh nói trên đây đều thuộc Thường Quang, hai loại quang minh tiếp theo đây thuộc về Phóng Quang.
11. Siêu Nhật Nguyệt Quang: quang minh của đức Phật vượt xa mặt trời, mặt trăng.
12. Bất Tư Nghị Quang: Cổ đức nói quang minh này có năm điều chẳng thể nghĩ bàn:
a. Vượt ngang ra khỏi tam giới, chẳng cần phải đợi đến khi đoạn hoặc:
Quang minh của Phật A Di Đà chiếu khắp hết thảy, nhưng chúng ta không thấy được, cũng chẳng nhận biết. Hiện tại, người có công năng định lực mới có thể thấy được. Quang minh này thật đáng sánh với tâm thanh tịnh. Vọng niệm chẳng đoạn, quyết định chẳng thể thoát khỏi lục đạo luân hồi. Thiền gia chẳng qua chỉ đè nén được Kiến Tư Hoặc nên chẳng thể thoát tam giới. Chẳng đoạn phiền não mà có thể thoát khỏi tam giới thì chỉ riêng mình pháp Niệm Phật mà thôi.
b. Hễ sanh về Tây Phương liền đầy đủ cả bốn cõi theo chiều ngang, chẳng phải do tiến tu dần dần:
Tất cả pháp Đại Thừa, tu nhân chứng quả đều có thứ tự, những thế giới khác đều có đủ cả bốn cõi, nhưng không phát khởi cùng một lúc. Phàm Thánh Đồng Cư Độ có phàm phu mà cũng có thánh nhân, có phàm phu giác ngộ, có người chân chánh tu hành, nhưng công phu chưa đạt đến tột cùng, chẳng thể siêu việt. Lại còn có Bồ Tát, La Hán thị hiện trong cõi này để hóa độ chúng sanh. Nếu đoạn được Kiến Tư phiền não, sẽ vượt khỏi lục đạo, dự vào Phương Tiện Hữu Dư Độ, ở ngoài tam giới. Nếu như phá được một phẩm vô minh, chứng được một phần Pháp Thân, liền nhập Thật Báo Trang Nghiêm Độ. Hai cõi trước là do A Lại Da Thức biến hiện, là Tướng Phần (8) của A Lại Da Thức. Thật Báo Trang Nghiêm Độ là pháp tánh độ, do Chân Như Bổn Tánh biến hiện ra. Thường Tịch Quang là Lý, xuyên suốt các cõi kia.
Trong thực tế, chỉ có ba cõi, nhưng trong Cực Lạc thế giới, bốn cõi đồng thời khởi. Tuy trình độ bất đồng nhưng vẫn khởi cùng lúc, cho nên một thứ sanh thì hết thảy đều sanh. Phàm phu sanh trong Đồng Cư Độ, Tiểu Thừa La Hán hồi Tiểu hướng Đại sanh trong Phương Tiện Độ, Bồ Tát sanh cõi Thật Báo. Đến Tây Phương hết thảy cùng khởi.
13. Chỉ trì danh hiệu, chẳng cần đến phương tiện nào khác:
Chẳng cần phải tu pháp môn nào khác, cũng chẳng cần phải đọc kinh điển nào khác, chỉ dựa vào một câu Phật hiệu, chẳng cần đến những thứ nào khác.
14. Lấy bảy ngày làm kỳ hạn, chẳng cần phải nhiều đời nhiều kiếp:
Hết thảy mọi sự thế gian, xuất thế gian đều buông xuống hết, thành tâm niệm Phật, bảy ngày liền có thể thành tựu.
15. Trì danh hiệu một đức Phật, liền được chư Phật hộ niệm, chẳng khác gì trì danh hiệu hết thảy Phật:
Hết thảy chư Phật tán thán thế giới Cực Lạc y báo, chánh báo trang nghiêm. Phật giảng kinh Vô Lượng Thọ là chương trình tu luyện chính để học Phật, các kinh điển khác đều để phụ trợ.
Mười hai đức Phật vừa nói trên là cổ Phật, A Di Đà Phật thành Phật chẳng qua mới mười kiếp, cổ Phật cùng với đức Phật A Di Đà hiện tại đồng danh đồng hiệu. Ở Trung Quốc, vào thời xưa, cha mẹ đặt tên cho con cái nhằm bày tỏ niềm hy vọng nơi con cái. Danh hiệu của một đức Phật là do trí huệ, đức năng, và phương pháp, biện pháp giáo hóa chúng sanh của Ngài mà kiến lập, bởi thế mới có những vị Phật danh hiệu giống nhau.
Chánh kinh:
Bỉ Phật giáo ngã, Niệm Phật Tam Muội.
Đức Phật ấy dạy con Niệm Phật Tam Muội.
Vô Lượng Thọ Phật dạy Đại Thế Chí Bồ Tát pháp Niệm Phật Tam Muội. Tam Muội là tiếng Phạn, nghĩa là Chánh Thọ. Niệm Phật, niệm thật hoan hỷ phi thường, niệm đến mức tinh thần no đủ, càng niệm càng lên tinh thần, là đạt Niệm Phật Tam Muội. Cảm thọ của phàm phu gồm năm thứ: khổ, sướng, buồn, vui, xả. Từ trời Dục Giới trở xuống, có đủ năm thứ này. Không có năm thứ này thì cuộc sống luôn bình ổn. Trời Sắc Giới khổ, sướng, buồn, vui đều chẳng có, chỉ có mỗi Xả thọ, chia thành tám đẳng cấp Tứ Thiền Bát Định. Do chẳng thể giữ được Định ấy vĩnh cữu, giống như đá đè cỏ, nên chỉ là tạm thời; nếu như đoạn dứt được cái gốc, liền thành tam-muội.
Niệm Phật có Sự và Lý, Sự Niệm là nhất tâm nghĩ nhớ, chẳng quản là Sự hay Lý, mấu chốt là Nhất Tâm, hễ có tạp niệm vọng tưởng thì chẳng phải là Nhất Tâm. Thông thường, quá nửa người đời dùng tạp tâm niệm Phật, chứ nếu thật sự nhất tâm, sẽ trong một thất hay hai thất liền đắc tam muội.
Về Lý Niệm, niệm chính là Thỉ Giác, Phật là Bổn Giác. Bổn và Thỉ hợp nhau, Thỉ - Bổn chẳng hai, gọi là Niệm Phật. Lý niệm tức là Thật Tướng Niệm Phật. Người sơ học rất khó thực hiện được, hãy nên hạ thủ bằng Sự Niệm, từ Sự Nhất Tâm niệm đến Lý Nhất Tâm. Từ bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo trở lên mới thuộc về Lý Niệm, từ Thập Tín trở xuống đều thuộc về Sự Niệm. Niệm Phật có bốn cách:
- Một là Thật Tướng Niệm Phật, tức là niệm đức Phật nơi tự tánh, hiểu cặn kẽ chân tánh của tự tâm, chẳng dùng tâm ý thức, chúng ta chẳng thực hiện nổi.
- Hai là Quán Tưởng Niệm Phật như mười sáu phép quán. Lúc tâm tưởng Phật thì tâm ấy chính là ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hình hảo. Tâm tưởng Phật biến thành Phật, tưởng cái gì liền biến thành cái đó. Tưởng chỗ nào có bệnh, chỗ ấy bèn có bệnh, thật đúng là chỗ nào cũng bệnh. Ngày ngày nghĩ tưởng khổ não, sao quý vị đoạn phiền não cho được? Mười sáu phép quán, tu phép nào cũng có thể thành tựu. Mười hai phép quán đầu đều là quán tưởng, phép quán thứ mười ba là quán tượng, phép quán thứ mười sáu sau rốt là Trì Danh Niệm Phật.
- Ba là Quán Tượng Niệm Phật, quán tượng Phật vẽ, đắp, hay đúc. Kinh dạy: "Đứng lên chắp tay, nhất tâm quán Phật". Trong nhà nếu có điện thờ Phật, nếu có thời gian rảnh rỗi, chẳng được lìa khỏi Phật đường.
- Bốn là Trì Danh Niệm Phật, nhất tâm chấp trì danh hiệu, chẳng hoài nghi, chẳng xen tạp, chẳng gián đoạn. Đây là điều Đại Thế Chí Bồ Tát gọi là "tịnh niệm tiếp nối". Trong bản chú sớ Quán Kinh, Thiện Đạo đại sư chỉ dạy vô cùng tường tận, phải tin vào lời Phật, đặc biệt là kinh Vãng Sanh. Ngoại trừ ba kinh Tịnh Độ ra, còn có Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm và Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông Chương. Dẫu cho cổ Phật tái lai, thuyết pháp hoàn toàn mâu thuẫn với những kinh trên cũng chẳng tin theo.
Tiếng Phạn "Tam Muội", Tàu dịch là Chánh Định, còn dịch là Chánh Tư. Tứ Thiền Bát Định của thế gian chẳng thể gọi là Chánh Định Chánh Tư, bởi chẳng thể giữ được chúng vĩnh cửu, chỉ tạm thời đè ép được phiền não chứ không đoạn được phiền não; còn Chánh Tư Duy đã ly khai vọng tưởng. Phàm phu khởi tâm động niệm không gì chẳng phải là tội, thiện ác hỗn tạp. Nhất tâm niệm Phật chính là Niệm Phật Tam Muội, cảnh giới ấy có sâu cạn khác nhau, công phu chẳng giống nhau. Đọc truyện ký xưa nay, thấy rất nhiều người niệm Phật ba năm liền có thể sanh tử tự ý, tùy nguyện vãng sanh, xem thế giới này có ai hữu duyên chăng, nếu vẫn còn có cơ duyên để độ, bèn chẳng ngại lưu lại thêm một thời gian nữa, nếu không sẽ sớm ngày vãng sanh.
Niệm Phật Tam Muội còn gọi là Nhất Hạnh Tam Muội, cũng gọi là Chư Phật Hiện Tiền Tam Muội, Bát Nhã Tam Muội, Phổ Đẳng Tam Muội. Từ xưa, tổ sư đại đức đem hơn ba trăm hội giảng kinh trong cả một đời giáo hóa của đức Phật Thích Ca Mâu Ni chia thành môn loại khác nhau, gọi là "phán giáo". Tông Thiên Thai chia thành tám giáo, tông Hiền Thủ chia thành năm giáo. Ở đây, theo tông Hiền Thành chia thành Tiểu, Chung, Thỉ, Đốn, Viên.
Niệm Phật Tam Muội có Sự Niệm và Lý Niệm. Phàm những gì trọng nơi sự tướng là thuộc về Tiểu giáo sơ cấp, giống như tiểu học. Các tông khác: Tiểu chẳng thông Đại; pháp môn này tuy có thứ lớp nhưng cũng viên dung. Trong Pháp Bảo Đàn Kinh, Lục Tổ giảng về Nhất Hạnh Tam Muội rất tường tận, Ngài truyền dạy Thiền Tông đốn ngộ. Thiền được nói trong Thiền Tông chẳng phải là Thiền Định trong Lục Độ, mà là Bát Nhã Ba La Mật. Vừa mở đầu Đàn Kinh, Lục Tổ dạy mọi người niệm Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa, minh xác Thiền Tông tu Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa.
"Nhất Hạnh" nghĩa là ý chuyên chú, pháp môn Tịnh Tông từ Sự Niệm có thể nhập Lý Niệm, cũng thuộc vào Nhất Hạnh Tam Muội, thuộc về Đốn Ngộ. Sau khi ngộ khởi tu, chưa thấy ai cũng có thể đốn chứng. So với Thiền Tông, Niệm Phật không đốn ngộ bằng, nhưng về mặt đốn chứng lại trỗi hơn Thiền Tông. Một đằng siêu thắng về mặt Ngộ, một đằng siêu thắng về mặt Chứng. Nhưng ngộ rồi chẳng nhất định sẽ chứng, bởi thế, cổ đức nói:
Đản đắc kiến Di Đà,
Hà sầu bất khai ngộ.
Chỉ được thấy Di Đà,
Lo chi chẳng khai ngộ?
Thấy đức Di Đà, tự nhiên khai ngộ, bởi thế so với Thiền Tông, Niệm Phật phải thù thắng hơn!
Chư Phật Hiện Tiền Tam Muội thuộc vào cảnh giới Đại Thừa Chung Giáo, niệm một câu A Di Đà Phật bao gồm danh hiệu hết thảy chư Phật, chẳng sót một đức Phật nào. Tựa đề kinh A Di Đà vốn là "Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh" (kinh được hết thảy chư Phật hộ niệm). Hết thảy chư Phật đều vì chúng sanh giảng kinh A Di Đà! Phật giảng kinh là ứng cơ thuyết pháp, các kinh điển chủ yếu đều đã được dịch sang Trung Văn, trong đó, kinh khế cơ nhất là kinh A Di Đà, độ khắp ba căn, thâu trọn lợi độn, khiến cho chúng sanh bình đẳng được độ. Vì thế, đại sư Thiện Đạo nói: "Sở dĩ Như Lai xuất hiện trong thế gian chỉ là để nói Di Đà nguyện hải".
Phật đã vì một sự kiện này mà xuất hiện trong thế gian, vì sao vẫn phải nói những pháp môn khác? Chỉ là do chúng sanh chẳng tin pháp môn này, chỉ có mỗi pháp môn này là pháp môn thành Phật ngay trong một đời. Ai có cơ hội một đời thành Phật thì người đó mới có thể chuyên tâm tin tưởng pháp môn này, nhưng những người như thế rất ít.
Trong cách phán giáo của tông Hoa Nghiêm, Bát Nhã Tam Muội thuộc về Đại Thừa Thỉ Giáo. Sơ Trụ Bồ Tát thật sự là bước mở đầu của Đại Thừa, Sơ Trụ phá một phần vô minh, chứng một phần Pháp Thân. Vì thế, gọi là Đại Thừa Thỉ Giáo. Nếu quý vị có dịp, hãy đọc cuốn sách vỡ lòng của Đại Thừa là Đại Thừa Khởi Tín Luận. Luận ấy là sách giáo khoa của Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, đương nhiên chúng ta xem chẳng hiểu!
Tiểu Thừa La Hán, Bích Chi Phật đã đoạn Kiến Tư Hoặc, vượt thoát tam giới lục đạo luân hồi, trong ba đức đạt được Giải Thoát đức, được tự tại; ngoài ra, Pháp Thân đức lẫn Bát Nhã đức đều chưa chứng đắc. Thập Trụ là giai đoạn mở đầu của Đại Thừa, Thập Địa là rốt cục của Đại Thừa. Địa thứ mười gọi là Pháp Vân địa.
Kinh Kim Cang cũng là Đại Thừa Thỉ Giáo, nêu lên những tiêu chuẩn của Bồ Tát, kinh dạy: "Nếu có Bồ Tát có tướng ta, tướng người, tướng chúng sanh, tướng thọ giả thì chẳng phải là Bồ Tát". Lìa được bốn tướng mới tính là nhập môn, phân nửa trên là "ly tướng"; phân nửa dưới là: "Thế Tôn nói ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến chẳng phải là ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến thì mới gọi là ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến". "Kiến" là ý niệm, [câu trên đây ý nói] chẳng khởi tâm, chẳng động niệm. Nửa phần sau này là "ly kiến". Ngay nơi một câu Phật hiệu liền khế nhập cảnh giới này, bốn tướng, bốn kiến đều chẳng có, phương pháp đơn giản, cũng là Đại Thừa Thỉ Giáo.
Cuối cùng là Phổ Đẳng Tam Muội. "Phổ" là phổ biến, rộng lớn vô biên, "Đẳng" là bình đẳng, tận hư không, khắp pháp giới, trọn chẳng có tướng sai khác, thật sự viên mão rốt ráo. Đem câu "nam mô A Di Đà Phật" dịch thành "quy y Vô Lượng Thọ" là Phổ Đẳng Tam Muội. Đem vô lượng công đức Phật A Di Đà đã chứng đắc biến thành cái nhân để tu cho chính mình, nhân tột biển quả, quả thấu nguồn nhân, nhân quả chẳng hai. Ta niệm là niệm Phật A Di Đà trong tâm ta, A Di Đà Phật là chúng sanh trong cái tâm niệm Phật. Chúng sanh, tâm và Phật là nhất tâm, nhất tâm không hai tâm, lập tức trong một niệm công đức viên mãn của chư Phật và chính mình dung hợp thành một phiến. Do đây, ta biết rằng: một câu Phật hiệu gồm đủ cả Tiểu, Thỉ, Chung, Đốn, Viên.
Niệm Phật Tam Muội, cổ nhân gọi là đường tắt, nhưng Trì Danh là đường tắt nhất trong các đường tắt, dễ đi mau đến, xưng danh hiệu Ngài, bổn nguyện như thế. Tâm người phương này tạp loạn, ắt phải làm cho chuyên tâm một cảnh mới hòng được vãng sanh. Tôi thường yêu cầu các vị niệm kinh Vô Lượng Thọ ba ngàn lần, là nhằm tu tâm thanh tịnh, lại dùng lòng tin thanh tịnh kiên định để chấp trì danh hiệu, có thể đạt đến minh tâm kiến tánh, đắc Vô Thượng Bồ Đề, trong một đời có thể đạt được.
Lão pháp sư Đàm Hư khai thị trong Phật thất tại đạo tràng nọ ở Hương Cảng, có lưu lại một cuốn băng thâu âm, Ngài lại nói giọng Thiên Tân, tôi phải nghe hết ba ngày mới hiểu hoàn toàn. Người có thiện căn nghe được cuốn băng ấy có thể vãng sanh, tôi nhờ người làm thành CD, rồi lại chế thành băng thâu âm. Có người chuyên niệm một câu Phật hiệu, rồi đứng mà qua đời hoặc ngồi mà qua đời; người thật, việc thật, bọn họ làm được như thế, thân tâm lẫn thế giới đều buông xuống cả, cái gì cũng chẳng có. Thiện căn của mình có hợp với tiêu chuẩn hay không chính mình phải tự biết. Nếu vẫn là ba tâm hai ý thì chưa đạt được tiêu chuẩn! Cũng chẳng nghĩ đến Phật pháp, thế sự lại càng chẳng tưởng đến. Việc gì cần cứ làm, làm xong không nghĩ đến nữa, trong tâm chỉ có một câu A Di Đà Phật.
Lại như pháp quán tưởng và quán tượng, cứ chiếu theo Thập Lục Quán Kinh, quán mặt trời lặn, mở mắt, nhắm mắt vẫn có vầng thái dương. Dẫu có quán thành vẫn là chấp tướng, để đạt đến Tây Phương phải bỏ được tướng, nhưng trừ tướng cũng chẳng dễ gì.
Chánh kinh:
Thí như hữu nhân, nhất chuyên vi ức, nhất nhân chuyên vong, như thị nhị nhân, nhược phùng bất phùng, hoặc kiến phi kiến. Nhị nhân tương ức, nhị ức niệm thâm, như thị nãi chí tùng sanh chí sanh, đồng ư hình ảnh.
Ví như có người, một người chuyên nhớ, một người chuyên quên, hai người như thế dù gặp cũng như không gặp, dù có thấy cũng như không thấy. Hai người nhớ nhau, hai người nhớ nghĩ nhau sâu xa, như thế cho đến từ đời này sang đời khác, giống như hình với bong.
Ví dụ thứ nhất là Phật nghĩ đến chúng sanh, nhưng chúng sanh trọn chẳng nghĩ đến Phật. Nếu cả hai nhớ nghĩ lẫn nhau bèn cảm ứng đạo giao. Cha mẹ nghĩ đến con cái thì chỉ một đời, đời sau chẳng còn gặp gỡ, dẫu có gặp nhau cũng chẳng nhận biết. Đối với chúng sanh, Phật nghĩ nhớ đời đời kiếp kiếp chẳng đoạn, tâm Ngài đối với chúng sanh chỉ có người chứng quả mới nhận hiểu nổi. Phật nói hết thảy pháp từ tâm tưởng sanh, câu nói ấy là chân lý và cũng là sự thật. Hết thảy pháp thế gian, xuất thế gian đều do tâm tưởng sanh, chúng sanh là chúng sanh trong tâm Phật; chư Phật là Phật trong tâm chúng sanh, tâm tâm tương đồng. Nếu chẳng phải là tự tánh biến hiện, sẽ chẳng thể có cảm ứng. Lúc khởi tâm niệm Phật, tâm ấy biến thành cái tâm có đức Phật ba mươi hai tướng, tâm là chủ tể. Niệm Phật lâu ngày, tâm thành từ bi, tướng mạo cũng nhu hòa, thể hiện ra tướng, ta thường nói "tướng tùy tâm chuyển".
Trong sách chú giải Quán Kinh, Thiện Đạo đại sư viết: "Chín phẩm vãng sanh đều là do gặp duyên sai khác". Vừa nghe đến pháp môn Niệm Phật, bèn tin tưởng ngay lập tức, tiếp nhận, chết một lòng niệm Phật, ấy chính là người thiện căn chín muồi, người ấy một đời niệm Phật nhất định đắc lực. Còn như người thiện căn chưa chín muồi, gặp duyên là điều rất quan trọng. Lâm chung, gặp bạn lành, nhất tâm bất loạn, niệm Phật vãng sanh, có thể lay động túc căn trong quá khứ, chuyên tâm niệm Phật mau được thành tựu.
Chánh kinh:
Thập phương Như Lai, mẫn niệm chúng sanh, như mẫu ức tử, nhược tử đào thệ, tuy ức hà vi?
Mười phương Như Lai nghĩ thương chúng sanh như mẹ nhớ con. Nếu con trốn đi, dù nhớ làm gì được?
Mẹ con tỷ dụ thân thiết nhất, mẹ nào chẳng nghĩ đến con! Từ xưa đến nay, lòng mẹ u mê, dẫu biết con chẳng nghĩ đến mình, vẫn cứ canh cánh, chẳng buông bỏ được. Ví Phật với mẹ, nhưng chẳng phải là chỉ thương nhớ một đời.
Chánh kinh:
Tử nhược ức mẫu, như mẫu ức tử, mẫu tử lịch sanh, bất tương vi viễn.
Nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con, mẹ con đời đời chẳng trái xa nhau.
Ở đây ví dụ cả mẹ lẫn con cùng nhớ chẳng xa lìa, tự nhiên cảm ứng đạo giao, ắt có thể thấy Phật vãng sanh. Chúng ta phải thể hội sâu xa: Vì sao niệm Phật nhất định được vãng sanh? Vì sao mười phương Như Lai riêng khen ngợi đức Di Đà?
Cao Tề là vương triều do Cao Hoan thành lập vào thời đại Nam Bắc Triều trong lịch sử, quốc hiệu là Tề. Đương thời, có vị Đại Hạnh hòa thượng nói: "Tin - nhớ hai chữ chẳng lìa nơi tâm, xưng - kính hai chữ chẳng lìa nơi miệng". Chẳng cần nghĩ gì khác, ngay cả với Đại Thừa Phật pháp cũng chẳng tưởng đến. Đại Thừa dạy chúng ta vượt thoát luân hồi, nhưng quý vị có vượt thoát được chưa? Muốn vượt thoát luân hồi phải đoạn phiền não, chưa đoạn phiền não thì tất cả trí huệ đều là gọi là tà trí huệ, chỉ tăng trưởng tà tri, tà kiến. Thanh Lương đại sư nói: "Có hiểu nhưng không hành, tăng trưởng tà kiến". Phật nói thất tình, ngũ dục chẳng đoạn, quả báo của quý vị vẫn là Dục Giới, chẳng thể đạt tới Sắc Giới. Đoạn ngũ dục mới có thể lên tới trời Sơ Thiền. Nếu người ta nói quý vị một câu nghe chẳng thuận tai, trong tâm quý vị vẫn còn chút phần chẳng cao hứng, quý vị chẳng thể lên được trời Sơ Thiền.
Trong truyện ký về ngài An Thế Cao có đoạn kể: Có lần ngài xuống Cửu Giang thuộc Giang Nam để độ bạn đồng học. Người đồng học đó làm Long Vương; trong quá khứ, ông ta là người xuất gia, hiểu kinh, thích bố thí, có một lần ra ngoài khất thực, cơm, thức ăn không ngon, trong tâm rất bực bội. Bởi một niệm tâm sân hận đó, chết đi lạc vào đường súc sanh, biến thành đại mãng xà, làm Long Vương ở Cửu Giang. Do ông ta hiểu kinh, nên có trí huệ, rất linh, nhang đèn cực thạnh. Chỉ vì sân tâm quá nặng, thuyền phu nào chẳng lạy ổng, ổng sẽ lật thuyền đó để trừng phạt. Bởi thế, đến khi hết thân rắn, ắt đọa địa ngục.
Các vị nghĩ coi: Khất thực chẳng vừa ý, mới khởi lên một niệm nóng giận, còn mắc phải báo đó, chúng ta phải nên kiêng dè. Tu hành là khử sạch tham, sân, si. Tu tâm thanh tịnh, tu tâm bình đẳng, tu tâm từ bi, tu tâm hoan hỷ, mới có thể sửa đổi được tập khí bệnh căn của chính mình. Tất cả hết thảy pháp môn không pháp nào chẳng tốt, nhưng thực tại, chúng ta chẳng có biện pháp gì để đoạn phiền não. Một câu Phật hiệu có thể đè nén tham, sân, si, ngũ dục, lục trần, chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ biết chậm. Một ý niệm vừa khởi, trong ý niệm thứ hai bèn niệm Phật hiệu. Niệm niệm liên tục, niệm Phật đắc lực hay không là do đây.
Vạn phần chẳng để Phật hiệu vẫn niệm, nhưng phiền não vẫn khởi tác dụng. Luôn luôn nỗ lực, luôn luôn buông xuống. Hiểu lý mới có thể buông xuống, mới có thể khuất phục được phiền não. Phải thường luôn bồi đắp, điều thứ nhất là phải đọc kinh, trong kinh đức Phật dạy chúng ta chân tướng của nhân sanh, vũ trụ, thế gian, xuất thế gian. Đọc kinh nhằm mục đích thấy rỗng toang, buông xuống, sau đấy dùng một câu Phật hiệu để giúp chúng ta vượt thoát tam giới.
Hòa Thượng Đại Hạnh nêu lên bốn chữ "tin, nhớ, xưng, kính", xem Vãng Sanh Truyện, ta thấy những người niệm Phật vãng sanh trong các đời nói chung đều đã thực hiện được bốn chữ ấy. Lại kiểm điểm mình, nếu mình làm chưa được, chỉ đành đợi đến những đời sau, nhưng đời sau có được thân người, có gặp được Phật pháp hay không đều là những nan đề cả! Bởi thế, nhất định phải nắm lấy cơ hội này, trọn chẳng để vuột mất.
Chánh kinh:
Nhược chúng sanh tâm, ức Phật, niệm Phật, hiện tiền đương lai, tất định kiến Phật.
Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm Phật, [sẽ trong] hiện tại hay trong tương lai, nhất định thấy Phật.
Kinh Vô Lượng Thọ nói: "Một câu chuyên niệm". Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: "Nhất tâm hệ niệm". Kinh A Di Đà (bản dịch của ngài La Thập) chép: "Nhất tâm bất loạn". Văn tự ba kinh tuy đây kia sai khác, nhưng ý nghĩa tương đồng. Kinh điển dạy chúng ta phải chú trọng cương lãnh tu hành, nếu muốn đạt được lợi ích công đức thù thắng, nhất định phải hiểu phương pháp tu học thì mới hòng mãn nguyện.
Chú tâm xem kỹ kinh điển, ta thấy trọng điểm chính là nhất tâm, chẳng những nhất tâm khi niệm Phật, ngay cả trong sanh hoạt thường ngày cũng phải nhất tâm. Niệm Phật chẳng qua chỉ là phương cách để huấn luyện nhất tâm đó thôi, chỉ có mỗi một niệm này, không còn niệm nào khác. Niệm niệm nối tiếp nhau, thành tựu tam muội, trong hết thảy thời, hết thảy nơi, trong cảnh thuận hay cảnh nghịch đều giữ được nhất tâm. Công phu niệm Phật thành phiến, liền có sức để hàng phục phiền não, đó gọi là Sự Nhất Tâm. Cổ đại đức tán thán pháp môn này đều tán thán nơi một điểm sau: nhờ vào chút công phu bèn có thể siêu xuất tam giới.
"Sẽ trong hiện tiền hay trong tương lai, nhất định thấy Phật". Thấy Phật là trong mộng thấy hoặc là trong định thấy. Định là tâm chẳng tán loạn. Kinh Hoa Nghiêm có đoạn chép khi Thiện Tài tham phỏng trưởng giả Uất Hương, vị đại đức ấy thích ra chợ để tu định tại đó. Lại như trong các bức bích họa ở Đôn Hoàng, Phật giảng kinh, thuyết pháp, trên trời có thiên nữ vừa ca vừa múa. Tu học ở mức độ cao chẳng giống với kẻ sơ học. Kẻ sơ học nhất định phải tìm cách xa lìa xã hội nhiễu nhương, đấy là điểm khác biệt giữa Đại Thừa và Tiểu Thừa. Trong hiện tại, tu học nếu thành tựu thì so ra sẽ cao hơn cổ nhân nhiều lắm. Nếu tu chẳng thành tựu, lui sụt cũng lẹ.
Kế đó, trong mộng thấy Phật cũng là tướng lành tốt phi thường, nhưng ngẫu nhiên gặp thì được, nếu thường thấy chỉ sợ là cảnh ma. Học pháp môn Tịnh Độ có Phật, Bồ Tát gia bị, ma chẳng dám đến dụ hoặc. Kinh Lăng Nghiêm dạy rất tường tận. Người niệm Phật lúc lâm chung, ắt được Phật A Di Đà đến đón; nếu thấy bất cứ vị Phật hay Bồ Tát nào khác đến đón đều chẳng muốn theo, chỉ đợi A Di Đà Phật, các cảnh giới tốt đẹp khác bất tất phải quan tâm đến. Huệ Viễn đại sư, sơ tổ Tịnh Tông, lúc lâm chung nói: Một đời Ngài thấy Phật A Di Đà ba lần, còn thấy Tây Phương Cực Lạc thế giới nữa, hoàn toàn giống như kinh nói.
Nhất tâm nhất ý chuyên niệm Tịnh Độ ngũ kinh, niệm đủ cả năm bộ cũng được, chọn lấy bất cứ bộ nào để niệm cũng được. Người niệm Phật thì nhiều nhưng vãng sanh thì ít, nguyên nhân là do miệng niệm nhưng tâm không niệm. Trong tâm thanh tịnh, bình đẳng, đại từ, đại bi, mới xứng là tâm niệm Phật, bởi lẽ tâm giống như tâm Phật. Tâm và nguyện đều giống với Phật thì Chân Như bổn tánh hiện tiền, niệm Phật là nhân, thành Phật là quả. Giống như Thiền Tông "minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật"; chúng ta dùng một câu A Di Đà Phật cũng có thể đạt được. Vị Phật ấy là "phần chứng Phật", chẳng phải là viên mãn Báo Thân Phật, chỉ là sơ trụ phần chứng Phật, vẫn còn có bốn mươi hai giai đoạn mới viên mãn.
Có những kẻ cả đời niệm Phật nhưng chẳng thể vãng sanh, nguyên nhân nói đại lược gồm 4 điều:
1. Một là vì niệm Phật chẳng tinh thành, niệm thứ nhất vừa mới tinh thuần, niệm thứ hai bèn xen tạp.
Lịch đại tổ sư đại đức đều là bậc thông Tông, thông Giáo, sau khi hiểu rõ Tịnh Độ bèn buông bỏ hết những thứ khác, chuyên tu Tịnh Độ. Trong những trước tác của đại sư Liên Trì, tinh hoa là bộ Di Đà Sớ Sao; trước tác tối trọng yếu của đại sư Ngẫu Ích là Di Đà Yếu Giải, Ấn Quang đại sư vào tuổi già chỉ dùng một bộ kinh A Di Đà, một câu Phật hiệu, ngoài ra chẳng còn có gì khác nữa.
2. Hai là vì sanh nghi, chẳng dốc lòng tin.
Tuy tu Tịnh Độ, cũng chịu niệm Phật, nhưng chẳng thể hoàn toàn tin mình có thể vãng sanh. Chỉ cần có một điểm nghi tình, lúc lâm chung dù có phước báo, thân không bệnh khổ, trí não sáng suốt, nhưng chỉ có thể sanh về biên địa. Kẻ phước báo kém hơn, thần trí chẳng sáng suốt, nghi chướng nổi lên, liền chẳng được vãng sanh. Nếu muốn phá trừ những nghi chướng ấy, hãy nên thâm nhập, nghiên cứu kinh giáo và tìm đọc những chuyện vãng sanh thật sự.
3. Thứ ba là do chẳng có nguyện vãng sanh.
Chẳng nguyện vãng sanh là mâu thuẫn với niệm Phật, dùng việc niệm Phật để tu phước, tương lai làm một con quỷ giàu có, có kẻ còn mong sanh lên trời, hy vọng tương lai hưởng phước trời, cầu phước báo trong cõi trời, cõi người.
4. Điều thứ tư là vì chẳng thể đoạn tham ái.
Tham cầu các thứ hưởng thọ trong tam giới lục đạo, phàm phu tham ngũ dục lục trần thế gian, người cõi trời tham phước báo thanh tịnh cõi trời, người Sắc Giới, Vô Sắc Giới tham hưởng thọ Thiền Định. Có tham ắt thành chướng ngại, chẳng thể vãng sanh.
Người tu Tịnh Độ chân chánh, ma chẳng dám đến nhiễu loạn. Thứ nhất là do niệm lực, tức là như kinh này nói: "Nhớ Phật, niệm Phật". Thứ hai là bổn nguyện có Phật tánh lực, điều được niệm là tự tánh Phật, thanh tịnh bình đẳng đại từ bi là Phật. Thứ ba là được bổn nguyện của chư Phật gia trì. Với sức bổn nguyện oai thần gia trì của mười phương ba đời hết thảy Như Lai, ma dù có sức cũng chẳng thể đến nhiễu loạn.
Tập khí mang theo từ nhiều đời nhiều kiếp; nếu thường khởi ác niệm, thường gặp ác mộng, đấy đều là do ác nghiệp quá khứ, phải nỗ lực tu pháp môn sám hối. Chắc thật niệm Phật là chân sám hối. Niệm tướng hảo của Phật để đối trị hôn trầm, niệm công đức của Phật để đối trị vọng tưởng. Cảnh thuận nghịch trong một đời chẳng nhất định, hãy nhớ kinh Kim Cang dạy: "Hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng". Vinh hoa phú quý thế gian là vướng bận, có ai thỉnh mình làm Đại Phạm Thiên Vương mình cũng chẳng làm. Bệnh khổ cũng là một duyên gây thoái thất, đừng nghĩ tới nó, hãy nghĩ tới tướng hảo trang nghiêm của đức Phật.
Trong Quán Kinh Trực Chỉ, ngài Từ Vân đại sư đời Thanh nói: "Người thế gian nghiệp chướng sâu nặng, lúc hết thảy kinh chú sám pháp đều chẳng thể tiêu trừ được thì rốt cuộc một câu Phật hiệu có thể tiêu sạch, phương pháp hữu hiệu nhất là niệm Phật."
Chánh kinh:
Khứ Phật bất viễn, bất giả phương tiện, tự đắc tâm khai.
Cách Phật chẳng xa, chẳng nhờ đến phương tiện, tâm được tự khai.
Sự Niệm, niệm đến một công phu nhất định, sẽ nhập vào Lý Niệm, có thể thấy được Pháp Thân và Báo Thân Phật. Công phu chẳng đạt tới mức, chỉ thấy được Ứng Hóa Thân Phật. Trong sớ luận, tổ sư đại đức nói niệm Phật, niệm đến Sự Nhất Tâm Bất Loạn, là nói về thượng phẩm Sự Nhất Tâm, đã đoạn Kiến Tư phiền não, thấy được Ứng Hóa Thân Phật. Nếu niệm đến Lý Nhất Tâm Bất Loạn, thấy được Báo Thân Phật, Pháp Thân Phật. Cái gọi là "kiến tánh thành Phật" chính là thấy được đức Phật nơi tự tánh, Phật tâm bình đẳng thanh tịnh, tự tánh thật và Phật là một.
Phật tâm bình đẳng, quyết chẳng có phân biệt, chấp trước, nguyện đồng Phật nguyện. Hết thảy các kinh Phật nói đều do trong tự tánh tự nhiên lưu lộ ra. Nếu ai nhập được cảnh giới này, mở xem kinh Phật, thấy những điều Phật giảng hoàn toàn giống với kiến giải của chính mình, bởi lẽ tự tha bình đẳng.
Một câu Phật hiệu chính là phương tiện thù thắng, lạ lùng, chẳng cần nhờ vào phương tiện, pháp môn khác nào để hỗ trợ. Niệm Phật chính là niệm tâm, tâm và Phật không khác, tự - tha bất nhị, bởi thế chẳng cần có ông Phật nào khác ở ngoài tâm để làm phương tiện. Nếu tự và tha là hai pháp thì chẳng phải là Phật pháp, Lục Tổ bảo như thế. Những điều được nói trong Đàn Kinh toàn là nguyên lý, nguyên tắc, bất cứ Phật pháp Đại Thừa nào cũng chẳng thể trái nghịch những nguyên lý, nguyên tắc được nói trong kinh ấy.
Chánh kinh:
Như nhiễm hương nhân, thân hữu hương khí. Thử tắc danh vi Hương Quang Trang Nghiêm.
Như người nhiễm hương, thân có mùi thơm. Đó gọi là Hương Quang Trang Nghiêm.
Phần trên, Đại Thế Chí Bồ Tát đã trình bày toàn bộ phương pháp tu học và hiệu quả tu học của chính mình rồi; giờ đây, Ngài đem danh xưng của pháp môn này bảo với chúng ta. Hai câu đầu là tỷ dụ. Hai câu sau nêu danh xưng của pháp môn này: Hương Quang Trang Nghiêm. Thân gần gũi thân Phật (Giới), tâm khai Phật tâm (Định - Huệ). Lời lẽ, hành vi của Phật đều từ tâm thanh tịnh phát khởi, trọn chẳng lầm lỗi, đáng là giới luật cho thế gian.
Luận trên mặt chân tâm, tâm Phật và tâm chúng không hai, không khác. Phật giác ngộ hoàn toàn; tướng của Giác là Định, tướng của Mê là động. Tâm bất động gọi là Định, tác dụng của nó là trí huệ chân thật. Trí huệ thông minh của phàm phu là dùng tưởng tượng, dùng tư duy, dùng suy tưởng, nên gọi là thế trí biện thông. Tâm định như gương, tịnh như nước lặng, thấy được chân tướng sự thật, cũng có thể thấy được quá khứ, vị lai. Tam thế, mười phương là "bất tương ưng hành pháp", nói theo cách bây giờ là khái niệm trừu tượng, chẳng phải thực sự tồn tại.
Cương lãnh giáo dục của đức Phật trong bốn mươi chín năm trên đời là: Có Định, có Huệ, tâm liền khai mở Phật tâm! Nếu ngôn ngữ, hành vi chúng ta tương ứng với giới luật thì gọi là thân gần thân Phật, như người nhiễm hương. Hết thảy pháp của Đức Phật nói do vì sự, do vì người, do vì địa bất đồng nên [nhiều] vô lượng vô biên, nếu nắm được tư tưởng trung tâm (tức điều cốt lõi) của chúng thì hết thảy ngôn hạnh sẽ tương ứng với Phật pháp.
Đại Tạng Kinh có mấy ngàn quyển, không cách gì đọc tụng khắp hết được, thông thường chúng ta chỉ có thể học tập chưa đến năm mươi bộ. Con người hiện tại rất bận bịu, chẳng thể có đủ thời gian để nghiên cứu kinh lớn, luận lớn. Kinh Vô Lượng Thọ số chữ không nhiều, nhưng bao quát hết thảy nguyên tắc, lý luận, nếu có thể đọc thuần thục bộ kinh này, thâm nhập lý giải kinh đó thì tốt lắm.
Kinh Hoa Nghiêm nói Bồ Đề tâm hương trừ được các nhiệt não: tham, sân, si v.v… Bồ Đề là giác. Tâm Bồ Đề đối trị tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, có thể làm cho chúng sanh đầy đủ trí huệ, thanh lương, không nhiệt não. Bồ Đề tâm thể và dụng rộng lớn, chứa đựng cả thái hư. Hiện tại chúng ta chỉ mê thích cái nhỏ nhoi, chỉ nghĩ đến bản thân, nhà cửa của mình, bởi thế phải lưu chuyển trong lục đạo, chẳng thể xuất ly. Lục đạo sanh từ mê, nếu chẳng mê thì đại thiên thế giới cũng chẳng có. Là phàm hay thánh chỉ trong khoảng mê hay ngộ, Tứ Thánh là giác, lục đạo là mê. Chân chánh giác ngộ liền có thể vượt thoát lục đạo.
Hòa Thượng Hư Vân một năm tắm một lần, cạo tóc một lần. Nghe nói thân ngài có mùi thơm, y phục cũng có mùi thơm. Chúng ta ba ngày chẳng tắm giặt, bốc mùi khó chịu đựng nổi. Chúng ta vào chùa nếu thấy có treo tấm biển Hương Quang Thất, ta biết nơi đó là đạo tràng niệm Phật.
Chánh kinh:
Ngã bổn nhân địa, dĩ niệm Phật tâm, nhập Vô Sanh Nhẫn.
Nhân địa của con, dùng tâm niệm Phật, nhập Vô Sanh Nhẫn.
Pháp môn Niệm Phật chẳng giống với bất cứ pháp môn nào khác. Mọi pháp môn đều là tu nhân chứng quả, nhân quả chẳng đồng thời. Pháp môn Niệm Phật là nhân quả đồng thời, gọi là "triệt quả hạch nhân". Phật hiệu đây chẳng phải chỉ là đức hiệu của riêng A Di Đà Phật khi Ngài chứng quả, mà còn là đức hiệu chứng đắc nơi quả vị của mười phương chư Phật Như Lai. Chúng ta lấy quả làm nhân, nên chẳng giống với bất cứ pháp môn nào khác.
Niệm Phật trọng tại niệm tâm, nhưng chẳng thể phế khẩu niệm. Tâm và miệng phải tương ứng nhau, phải như một, miệng đọc suông là vô ích, nhất định phải miệng niệm tâm ứng, chẳng thể dùng cái tâm ý thức phân biệt để niệm, mà phải nhiếp trọn sáu căn nhất tâm bất loạn mà niệm. Hai mươi lăm vị Bồ Tát trong kinh Lăng Nghiêm đều là Pháp Thân đại sĩ, các Ngài chẳng có vọng tâm, chân tâm đã hiển lộ. Dù chúng ta chưa đạt tới cảnh giới của các Ngài, nhưng muốn học theo thì trọng yếu nhất là chắc thật niệm Phật.
Phương pháp [niệm Phật] rất nhiều, trong quá khứ, tại chùa Linh Nham ở Tô Châu có một tấm bia đá khắc một bài kệ, dạy người đời phương pháp niệm Phật, chẳng cần phải đếm số, chỉ quán tưởng màu sắc, mùi thơm, ánh sáng của hoa sen. Căn cứ vào kinh Di Đà nói trong ao bảy báu có hoa sen: màu xanh ánh sáng xanh, màu vàng ánh sáng vàng, màu đỏ ánh sáng đỏ, màu trắng ánh sáng trắng. Niệm A Di Đà Phật câu thứ nhất tưởng hoa sen màu xanh ánh sáng xanh, niệm sang câu thứ hai tưởng hoa sen vàng ánh sáng vàng, câu thứ ba tưởng hoa sen đỏ ánh sáng đỏ, câu thứ tư tưởng hoa sen màu trắng ánh sáng trắng. Theo thứ tự đó, hết một vòng lại trở về đầu, luân lưu quán tưởng, dùng phương pháp này để nhiếp trọn sáu căn, chẳng cần phải đếm số. Ấn Quang đại sư nói cách niệm này phù hợp ý kinh.
"Ngộ" là ngộ nhập, chia thành giải ngộ và chứng ngộ. Đoạn nghi sanh tín, gọi là giải ngộ, nhưng phiền não tập khí chưa đoạn, vẫn còn chướng ngại trí huệ thanh tịnh, chướng ngại vãng sanh thành Phật, cần phải chân chánh khế nhập cảnh giới Phật. Kinh Lăng Nghiêm giảng về chân tướng của vũ trụ nhân sanh, phương pháp và trình tự tu hành tường tận hơn các kinh khác. Kinh Hoa Nghiêm nói tu hành có năm mươi hai địa vị, nhưng kinh Lăng Nghiêm nói đến sáu mươi địa vị, tỉ mỉ hơn kinh Hoa Nghiêm. Trong kinh Hoa Nghiêm, trước địa vị Thập Tín có ba địa vị tiệm thứ (tiến dần dần). Ba địa vị tiệm thứ ấy chính là cơ sở tu hành, như các lớp dự bị đại học.
Thứ nhất là tu tập, mục đích trước hết là trừ các trợ duyên của tập khí phiền não. Chẳng hạn như người tu hành phải đoạn ngũ tân (năm thứ hôi nồng). Ngũ tân là hành, tỏi, kiệu, hẹ, hưng cừ (9), đều là những thứ trợ duyên bất hảo, nên gọi là các thứ rau hôi. Ăn sống can hỏa dễ động, ăn chín làm cho hormone tăng thêm, có thể gây nên những xung động tình dục.
Thứ hai là chân tu, chân tu là dùng cái tâm chân thật để tu. Trước hết, nhất quyết phải trì giới, giữ bốn giới trọng "giết, trộm, dâm, dối", nặng nhất là tội đại vọng ngữ: chưa chứng bảo là đã chứng. Như Vĩnh Minh đại sư là A Di Đà Phật tái lai, một khi thân phận bị lộ Ngài bèn viên tịch. Bố Đại hòa thượng xuất hiện dưới thời Nam Tống, là Di Lặc Bồ Tát tái lai, chính Ngài tự nói ra, nói xong bèn viên tịch. Kẻ nào nói xong chẳng viên tịch thì đích thực là giả mạo.
Thứ ba là tăng tấn, dùng sức định huệ đoạn trừ nguồn ác, không ngừng cầu tiến lên, xa lìa tập khí phiền não của chính mình, sau đấy mới nhập địa vị Thập Tín. Dù có viên mãn địa vị Thập Tín, vẫn chỉ thuộc về Giải vị (địa vị mới giải ngộ, chưa thật chứng), trọn chưa kiến tánh, chưa tự thấy hiểu chân tướng của vũ trụ, nhân sanh. Từ Sơ Trụ trở lên, phá một phần vô minh, thấy một phần bổn tánh, mới tính là thật chứng.
Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác gọi là chứng nhập, cho đến địa vị bốn mươi mốt của hàng Pháp Thân đại sĩ. Tiểu thánh đã chứng Nhân Không, nhưng chưa chứng nhập Pháp Không, chẳng qua là giải ngộ, phá được Ngã Chấp, nhưng chưa thể trừ được Pháp Chấp.
Tiêu chuẩn nhập Vô Sanh Pháp Nhẫn trong kinh Nhân Vương khá cao: phải đạt đến Thất, Bát, Cửu Địa mới được tính là chứng nhập, dùng tịnh niệm chân chánh để trừ diệt tà kiến, vọng tưởng, và các thứ nhiễm ô tư tưởng, kiến giải nơi tâm lý, tinh thần. Trước kia thấy thế giới là đời ác năm trược, bây giờ, tâm thanh tịnh rồi, thấy thế giới là thanh tịnh, tâm thanh tịnh thế giới cũng thanh tịnh, hết thảy pháp sanh từ tâm tưởng. Tâm là mấu chốt, nội pháp ngoại pháp đều không, hết thảy vô sanh, đó là cảnh giới của bậc từ Thất Địa trở lên. Không thể không biết cương lãnh tu học như thế, trong lúc niệm Phật, bất cứ chuyện gì chẳng được nghĩ đến.
Có kẻ nói càng niệm Phật vọng tưởng càng nhiều, đó chỉ là lúc bình thường chẳng hay biết đấy thôi, nào phải bình thường chẳng có vọng tưởng. Lúc niệm Phật, y báo, chánh báo trang nghiêm của Tây Phương đều có thể dùng để tưởng được cả, chẳng riêng gì hoa sen, nhưng chỉ nên tưởng một thứ, bởi mục đích là để dẹp tạp niệm.
Kinh Hoa Nghiêm giảng Vô Sanh Pháp Nhẫn là chẳng thấy có chút pháp nào sanh, cũng chẳng thấy chút pháp nào diệt. Đó là nói đến hiện tượng của Vô Sanh Pháp Nhẫn. Khi nào quý vị thấy cùng tột hư không khắp pháp giới chẳng có chút pháp nào sanh, cũng chẳng thấy có chút pháp nào diệt, quý vị đã chứng đắc cảnh giới Vô Sanh Pháp Nhẫn. Vô sanh vô diệt mới là chân tướng, có sanh có diệt là sự hiểu lầm của chúng ta; nhưng nếu ta chưa tự chứng cảnh giới này, rất khó hiểu được nổi.
Nói chung, tâm ta và tâm Phật, tâm Bồ Tát chẳng khác gì, nhưng tâm Phật, tâm Bồ Tát bất động, tâm bất động là chân tâm, những điều được thấy đều là tướng chân thật. Tâm chúng ta là tâm sanh diệt, tâm hư vọng, nên toàn thấy những tướng hư vọng, đến khi nào chúng ta tu định đạt đến trình độ tương đương, tự mình chứng đắc rồi thì mới có thể hiểu rõ lý luận này. Kinh Đại Thừa nói: "Phật chẳng độ chúng sanh". Ngài chỉ giảng rõ chân tướng chính Ngài đã tự chứng, chúng ta có tự chứng được hay không là do công phu của chính mình.
Không sanh, không đến, lìa dục, không nguyện đều là "không", đây là nói theo mặt Lý. Không diệt, không tận, không đi là "chẳng không", đây là luận trên mặt Sự. Ly cấu, vô biệt, vô xứ, tịch tĩnh, vô trụ, không nhưng chẳng không chính là Trung Đạo. Sự là có, nhưng thể của nó là không. Sự từ đâu có? Phật nói vạn pháp do nhân duyên sanh. Bất cứ một pháp nào sanh khởi đều có vô lượng nhân duyên. Cái gì sanh bởi nhân duyên ắt không có tự thể, tức là không! Đừng hiểu Không là không có gì. Không là Có, chỉ vì sáu căn của chúng ta chẳng tiếp xúc được nên tạm gọi là Không, chứ chúng thật sự là Có. Nếu hiểu rõ được sự thực, liền có thể sử dụng Trung Đạo, chẳng nghiêng lệch về Không Lý hay chấp vào Giả Tướng.
Nho gia nói đến đạo Trung Dung, nhưng chưa thấu triệt Phật pháp. Châu Hy là người đời Tống, cũng từng học Phật, bỏ không ít công phu học Phật, bộ Tứ Thư do ông ta biên soạn nhất định chịu ảnh hưởng cách chỉ dạy trong kinh Hoa Nghiêm, nhưng tôi chưa dám khẳng định, bởi lẽ kết cấu Tứ Thư rất giống với kinh Hoa Nghiêm. Điểm đặc sắc lớn nhất của kinh Hoa Nghiêm là có lý luận, có phương pháp, lại còn có cả biểu diễn nữa. Năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng tử là biểu diễn, ứng dụng lý luận vào sanh hoạt thường nhật
. Kết cấu của Tứ Thư cũng giống như vậy, Trung Dung là lý luận, Đại Học là phương pháp, Luận Ngữ và Mạnh Tử là biểu diễn, thuyết minh thánh hiền vận dụng cái đạo Trung Dung trong sanh hoạt thường nhật như thế nào. Khổng Tử đãi người tiếp vật cả một đời đều tuân thủ cái đạo Trung Dung. Thời xưa, đế vương đều lấy lẽ trung hòa để trị thiên hạ. Ba ngôi đền lớn trong hoàng cung Bắc Kinh có tên là Thái Hòa điện, Trung Hòa điện và Bảo Hòa điện.
Chánh kinh:
Kim ư thử giới, nhiếp niệm Phật nhân, quy ư Tịnh Độ.
Nay trong cõi này, nhiếp người niệm Phật quay về Tịnh Độ.
Ba câu này nêu rõ nhiệm vụ của Bồ Tát khi vào trong thế giới này: Chỉ dạy chúng sanh y giáo phụng hành, ai nấy đều có cơ hội giác ngộ chân tướng của nhân sanh vũ trụ, viên thành Phật đạo. Việc giáo hóa chúng sanh này cũng có thể gọi là gia nghiệp của Như Lai. Thế giới này là thế giới ngũ trược ác khổ, kinh Vô Lượng Thọ mô tả là "ngũ thống, ngũ thiêu" (năm điều đau đớn, năm điều thiêu đốt). Sống trong thời đại này, mức độ ác trược càng sâu càng mạnh, chẳng luận trong nước hay ngoài nước, tánh tình con người tham, sân, si mạn tăng trưởng không ngừng. Ở những nơi tôi đi đến và có dịp quan sát, lại càng thấy đáng sợ vô cùng. Ác trược đã đạt đến mức độ tương ứng thì hậu quả là khó tránh tai nạn phát sanh, con người hiện tại phải nên cảnh tỉnh.
Chữ "Tịnh Độ" chỉ Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng thuộc vào địa cầu này, chẳng thuộc trong Thái Dương Hệ, cũng chẳng thuộc trong Ngân Hà Hệ. Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ cho rằng Ngân Hà Hệ bất quá chỉ là một đơn vị thế giới mà thôi. Khu vực giáo hóa của một đức Phật gồm một trăm ức Ngân Hà Hệ. Bài văn này của cụ được in trong phần phụ lục cuốn chú giải kinh Vô Lượng Thọ. Ở phương Tây bên ngoài đại thiên thế giới của chúng ta, cách xa mười vạn ức cõi Phật, có một thế giới Cực Lạc rộng lớn, là khu vực giáo hóa của đức Phật A Di Đà, khoảng cách giữa thế giới Cực Lạc và địa cầu của chúng ta là một con số thiên văn (ý nói rất lớn) làm sao có thể đến được nổi? Quý vị đọc kinh Đại Thừa liền biết: Muốn đến được Cực Lạc chẳng phải là chuyện khó. Bởi lẽ, cùng tận hư không khắp pháp giới đều là vật do tâm tánh ta biến hiện, chẳng cần biết khoảng cách xa hay gần, đều chẳng thể vượt khỏi phạm vi của tâm ta. Đã thuộc trong tâm thì trong một niệm bèn có thể đến đó được.
Tốc độ của niệm lực cùng khắp, không có vật chất gì có thể so sánh được. Trong mỗi giây, ánh sáng có thể đạt đến tốc độ ba mươi vạn dặm, nhưng niệm lực nơi tâm trong khoảng sát na, chưa đến một giây, đã có thể trọn khắp vô tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta biết bản năng này của nhân loại; Phật chỉ dạy chúng ta cách khôi phục bản năng của chính mình. Nếu nói đức Phật có thể ban cho chúng bất cứ vật gì, nói như vậy là lừa người, bởi thế mới nói trong Phật pháp không có mảy may mê tín nào cả!
Trong hư không, địa cầu vô cùng nhỏ bé, các tôn giáo khác tin kính Nước Trời, trời phải đâu chỉ có một, đức Phật nói có hai mươi tám cõi trời, mỗi tầng trời đều có hoàn cảnh sanh hoạt riêng, kinh Phật mô tả cực tường tận. Không gian hoạt động thật sự của chúng ta có phạm vi cực rộng, mỗi một tinh cầu trong hư không đều liên quan đến ta. Có vị đồng học bảo tôi, các nhà khoa học Tây Phương dùng phương pháp khoa học, truy tìm quá khứ của một người, chứng minh con người thực sự có chuyển thế, có người đời trước là người ở địa phương nào đó, có người từ trong đường súc sanh mà đến, lại còn có người từ tinh cầu khác sanh về đây. Không gian lớn vô hạn, lẽ tự nhiên là người trên địa cầu có thể từ tinh cầu khác sanh vào đây.
Nói trên mặt Sự, cõi này là quán trọ, Tịnh Độ là quê nhà. Quán trọ và quê nhà phải dùng thời gian mà luận, người sống trong thế giới này mang tánh cách tạm thời, sau khi đến Tây Phương, thọ mạng vô hạn, thời gian dài lâu mới là quê nhà. Mê thì đánh mất phương hướng, giác ngộ rồi không ai là chẳng hồi đầu, thảy đều muốn trở về Tây Phương cả.
Đại Thế Chí dùng sức bổn nguyện oai thần gia trì người niệm Phật, nhưng người niệm Phật vẫn cứ phiền não, vẫn có thoái chuyển, vẫn có tâm tham luyến. Đây chẳng phải là nguyện lực của Bồ Tát có vấn đề, mà là do nghiệp chướng tập khí của chính mình quá nặng. Phật, Bồ Tát không có ý niệm cưỡng bách một cá nhân nào phải làm như thế này, như thế nọ. Nếu các Ngài có ý niệm như thế, tâm các Ngài chẳng thanh tịnh. Phật, Bồ Tát là thầy, chúng ta phải thành khẩn tiếp nhận lời dạy răn của các Ngài, làm theo.
Chương kinh văn này chỉ có hai trăm bốn mươi bốn chữ, nhưng nếu hiểu rõ ý nghĩa, y theo phương pháp lý luận kinh dạy để tu học thì chính là được Đại Thế Chí Bồ Tát gia trì. Y theo đây tu học ắt chẳng bị thoái chuyển, công phu tự nhiên đắc lực, lâm chung các Ngài ắt đến tiếp dẫn.
Có năm pháp môn thấy được đức Phật trong năm cõi, cổ đức có nói như vậy, riêng nêu tại đây để mọi người cùng tham khảo, nhưng bất tất phải học theo, chỉ để sau này có ai nhắc đến, chúng ta khỏi bỡ ngỡ, việc tu hành của chính mình đương nhiên phải lấy lời Phật làm chuẩn mực. Năm pháp môn đó là:
1. - Nhớ tưởng ngoại cảnh niệm Phật.
2. - Nhiếp cảnh quy tâm niệm Phật.
3. - Tâm cảnh dung thông niệm Phật.
4. - Tâm cảnh cùng mất niệm Phật.
5. - Viên dung vô tận niệm Phật.
Đầy đủ ba tư lương Tín - Nguyện - Hạnh, ba diệu huệ Văn - Tư - Tu, mới gọi là người niệm Phật. Nếu chỉ là miệng niệm Phật suông, trong tâm suy nghĩ lung tung, Đại Thế Chí chẳng biết làm cách nào! Tu Tịnh Độ phải có đủ điều kiện Tịnh Độ, tức là ba tư lương. Thật sự tin có Phật A Di Đà, lòng tin hoàn toàn thành khẩn; nguyện học theo A Di Đà Phật, thật sự nguyện sanh về Tây Phương Tịnh Độ; Hạnh là niệm một câu thánh hiệu A Di Đà Phật này. Trong sanh hoạt thường ngày tuân theo mỗi điều Phật dạy răn thành nề nếp. Đó là Chánh Trợ Song Tu.
Lại còn phải có ba diệu huệ Văn - Tư - Tu. Văn ngụ ý tiếp xúc, tai nghe âm, mắt thấy sắc, lấy một chữ Văn làm tiêu biểu cho tất cả nên gọi là Văn. Tư ngụ ý hiểu rõ, chứ không phải là suy xét, suy xét là thuộc về thức thứ sáu. Một phen tiếp xúc bèn hiểu rõ, hiểu rõ xong, tu hành quyết định chẳng mê. Văn - Tư - Tu đồng thời. Đấy là cách tu hành của Bồ Tát, khi vãng sanh, quá nửa sẽ sanh vào Thật Báo Trang Nghiêm độ, thuộc về Lý Nhất Tâm Bất Loạn. Ngẫu Ích đại sư nói: "Niệm Phật dù hữu niệm thì rốt cuộc cũng nhất định đạt đến vô niệm; từ Sự niệm rốt cuộc cũng nhất định đạt đến Lý Niệm."
Tịnh Tông Học Hội đòi hỏi người niệm Phật phải có đủ năm đức, ba phước, lục hòa, tam học, lục độ, thập nguyện, một bề chuyên niệm cầu sanh Tịnh Độ. Lấy Phật làm cảnh, tâm nguyện giải hạnh, mỗi mỗi đều giống như Phật mới là người niệm Phật chân chánh. Đấy là những điều chúng tôi đề xướng bao năm qua. Trong thế giới ác trược này, khởi tâm động niệm, xử thế đãi người, tiếp vật như thế nào, sao cho cõi lòng chúng ta vẫn thanh tịnh vô nhiễm, thành tựu trí huệ công đức thì những điều kiện vừa nói ở phần trên rất trọng yếu.
Thứ nhất là năm đức, đó là căn bản lớn lao để làm người. Đó chính là thái độ xử thế đãi người cả một đời của vị Đại Thành Chí Thánh Tiên Sư Khổng Phu Tử. Mọi đệ tử cửa Khổng đều công nhận thầy mình có năm đức, tức là Ôn, Lương, Cung, Kiệm, Nhượng (ôn hòa, hiền lương, cung kính, tiết kiệm, khiêm nhượng), lấy tư tưởng Nho Gia làm cơ sở hòng kiến lập vô thượng Đại Thừa Phật pháp, rồi mới học những thứ khác.
Ba phước: học Phật chẳng thể không có phước báo, Phật là đấng Lưỡng Túc Tôn, phước lẫn huệ đầy đủ. Túc có nghĩa là viên mãn. Tam phước xuất phát từ Quán Kinh, tổng cộng gồm ba điều kiện, tất cả hết thảy Đại Thừa Phật pháp đều chẳng thể không có ba thứ phước này.
1. Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp.
Phật pháp truyền đến Trung Quốc, vì sao được tiếp nhận rộng khắp trong triều ngoài nội, được phát dương quang đại không ngừng là phải có lý do: Cơ sở của Phật pháp là hiếu với cha mẹ, tôn trọng thầy, Nho gia cũng thế. Nhiều điều Nho Gia đề xướng chỉ là nguyên tắc khá giản lược, kinh điển Phật giáo phong phú có thể bổ sung những điểm thiếu sót của Nho Gia. Đế vương các đời chẳng cần biết hành vi như thế nào, đều phải lấy Hiếu để trị thiên hạ.
Trên thế giới, trong bốn nước có nền văn minh lớn lao từ thời cổ, ba nước đã diệt vong, chỉ còn mình Trung Quốc tồn tại hơn năm ngàn năm, nguyên nhân là do quan niệm hiếu thuận cha mẹ, tôn phụng sư trưởng vậy. Cơ sở để duy trì nguồn mạch đạo lý này là kiến lập từ đường. Thời cổ cúng giỗ là nhằm mục đích suốt cả đời kính nhớ nguồn gốc, hiệu quả là vun bồi dân đức sâu xa. Tổ tiên cách xa hơn ngàn năm còn chẳng quên, lẽ nào bất hiếu với cha mẹ hiện tại. [Văn minh Trung Hoa] hơn năm ngàn năm chưa bị đào thải là do dùng hiếu đạo để duy trì. Chẳng có cha mẹ, chẳng hy vọng gì con cái tốt lành; chẳng có thầy dạy chẳng hy vọng học trò giỏi giang. Con cái, học trò tiếp nhận lời chỉ dạy, nỗ lực tiến lên, kế sách công tác giáo dục trăm năm bèn thành tựu. Bởi thế, gia đình hòa thuận, xã hội yên ổn, quốc gia giàu mạnh, thế giới đại đồng, đều tạo dựng từ hiếu đạo.
Xem trong lịch sử, nếu tuân thủ lời dạy của Khổng Phu Tử để trị quốc, chỉ tuân hành được hai ba phần, quốc gia đã đại trị; những lúc trái nghịch lời dạy của Khổng Tử, quốc gia ắt bị loạn lạc. Lại còn mở rộng hiếu kính ra hơn nữa, mở rộng cái tâm hiếu thuận cha mẹ thành cái tâm hiếu thuận đối với hết thảy chúng sanh, mở rộng cái tâm kính trọng sư trưởng thành tâm kính trọng hết thảy chúng sanh, đó gọi là đại hiếu. Tâm lượng rộng mở, có hiếu kính thì mới có thể sanh tâm đại từ bi.
2. Thọ trì Tam Quy, đầy đủ các giới, chẳng phạm oai nghi.
Tam Quy là quy y Tam Bảo. Ba đại cương lãnh của Phật giáo là: Giác chẳng mê; chánh không tà, tịnh chẳng nhiễm. Về phương pháp tu học, chúng ta chọn pháp môn Niệm Phật, nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối. Giới luật là khuôn phép sanh hoạt, là lễ tiết oai nghi.
3. Phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến khích sách tấn người tu học.
Tam phước là luận trên phương diện tu học của chính mình. Lục Hòa là luận trên phương diện đoàn thể, là nguyên tắc đối xử giữa mọi người với nhau.
Thứ nhất là Kiến Hòa Đồng Giải: ý kiến tương đồng, giảm thiểu tranh chấp, tức là như thường nói là hiểu biết lẫn nhau. Trước kia, đến già, đến chết không qua lại với nhau cũng chẳng thấy quan hệ gì lắm. Cận đại, khoa học kỹ thuật đột nhiên phát triển mạnh mẽ, tin tức giao thông thuận tiện, nhanh chóng, làm thế nào để hiểu biết lẫn nhau ngõ hầu giữ cho nhân loại đối xử hòa bình với nhau thật là trọng yếu. Sử gia kiêm triết học gia Anh Quốc là Thang Ân Tỉ đã nói trong hội nghị Nhật Nội Ngõa như sau: "Muốn xây dựng sự hiểu biết lẫn nhau một cách hòa bình trên thế giới hiện tại và mai sau, thì rốt cục phải dùng đến học thuyết Khổng Mạnh và Đại Thừa Phật pháp."
Chủ giáo (10) Vu Bân Khu Cơ của Trung Quốc tham gia hội nghị ấy, sau khi về nước bèn đề xướng thờ cúng tổ tiên, việc thờ cúng tổ tiên trong Thiên Chúa Giáo do đấy được bắt đầu. Bởi lẽ tư tưởng Khổng Mạnh ôn hòa nên hiếu dưỡng cha mẹ, tôn kính sư trưởng không ai phản đối, bất cứ tư tưởng trong nước, ngoài nước nào đều có thể xây dựng sự hiểu biết lẫn nhau. Bởi thế, sau đại hội tôn giáo chung, giáo hội Công Giáo thông tri những người có trách nhiệm ở các nơi chủ động đối thoại với Phật giáo hòng hấp thụ những kinh nghiệm của Phật giáo.
Khéo sao, tôi gặp dịp Chủ Giáo Vu Bân dự trù thành lập Sở Nghiên Cứu Đời Sống Tinh Thần Á Đông cho thần học viện Đa Mã Tư ở Phụ Đại Hậu Biên, những nghiên cứu viên của sở là những linh mục, nữ tu, tối thiểu phải tốt nghiệp đại học hoặc tốt nghiệp môn Thần Học, phục vụ ba năm; ông ta mời tôi đến dạy. Bọn họ chủ yếu là muốn nghiên cứu Phật giáo, học viên không đông, nhưng người dự thính lên đến tám, chín chục người. Thứ hai là giới hòa đồng tu (cùng hòa kính gìn giữ giới luật), thứ ba là thân hòa đồng trụ (hòa kính cùng ở chung với nhau), thứ tư là khẩu hòa vô tránh (lời lẽ hòa kính, không tranh cãi), thứ năm là ý hòa đồng duyệt (ý kiến hòa đồng, cùng vui vẻ chia xẻ quan điểm), thứ sáu là lợi hòa đồng quân (vui vẻ chia xẻ quyền lợi với nhau).
Tam Học là Giới - Định - Huệ, cho đến Lục Độ, Thập Nguyện, học đến mười nguyện Phổ Hiền chính là đăng phong tạo cực, tâm lượng rộng lớn, nguyện hạnh cũng rộng lớn vô biên. Chẳng hạn như nguyện thứ nhất là "lễ kính chư Phật", hết thảy chúng sanh đều là Phật, chúng sanh đều có Phật tánh, đã có Phật tánh thì sớm muộn gì cũng đều có thể thành Phật. Vô tình chúng sanh cũng là Phật, thực vật hay khoáng vật đều có Phật tánh. Kinh Hoa Nghiêm chép: "Tình và vô tình, cùng viên mãn chủng trí". Đối với hết thảy mọi người, hết thảy sự vụ đều phải tận tâm, tận lực, tận trách nhiệm.
Các bạn đồng học khi học Phật nhất định phải vận dụng Phật pháp vào sanh hoạt thường nhật. Ví như cái bàn là vật, phải lau chùi cho thật sạch, phải sắp cho ngay ngắn chỉnh tề, tức là mình cung kính nó. Với bất cứ sự việc nào chịu trách nhiệm đều nghiêm cẩn thực hiện, đó chính là lễ kính. Một bề chuyên niệm cầu sanh Tịnh Độ. Nương vào Phật làm cảnh, tâm nguyện, hạnh giải, mỗi mỗi đều giống như Phật mới là người thật sự niệm Phật. Tâm mong mỏi hiểu rõ các pháp, mọi hành vi tạo tác trong cuộc sống thường ngày luôn lấy Phật làm chuẩn, hành theo đúng như kinh Vô Lượng Thọ đã dạy đó là người thật sự niệm Phật.
Kinh Hoa Nghiêm, trong cuốn thứ năm, đức Phật hỏi các đệ tử lúc ban sơ phát tâm, đối với mười tám cảnh giới ai viên thông cảnh giới nào, từ phương tiện nào mà nhập tam-ma-địa, bảo các đồ đệ trả lời. Có tất cả hai mươi lăm vị Bồ Tát đáp lời, đem vô lượng vô biên pháp môn quy nạp thành hai mươi lăm loại lớn, mỗi một loại có một người làm đại biểu. Đại Thế Chí Bồ Tát đại biểu pháp môn Niệm Phật, Ngài thưa cùng đức Phật:
Chánh kinh:
Phật vấn viên thông, ngã vô tuyển trạch, đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương kế, đắc tam-ma-địa, tư vi đệ nhất.
Phật hỏi viên thông, con không chọn lựa. Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, đắc tam-ma-địa, ấy là bậc nhất.
Hai mươi lăm môn Viên Thông, môn nào cũng là bậc nhất. Pháp môn trọn chẳng cao thấp, ví như người bệnh, mỗi người căn bệnh khác nhau, tự nhiên uống thuốc khác nhau, thuốc nào trị được chứng ấy thì là bậc nhất. Bất luận pháp môn nào, đối với sự tu học của chính mình vô cùng thích hợp, khế cơ, pháp môn ấy là bậc nhất. Viên Thông nghĩa là viên dung, Thông là thông đạt vô ngại, viên mãn thông đạt tức là đại triệt đại ngộ, chẳng luận là đã học hay chưa học đều có thể hiểu rõ, biết được quá khứ, vị lai, lại còn biết được cảnh giới của người khác. Bởi lẽ, tâm mình và tâm người khác chỉ là một, đạt đến mức độ ấy bèn gọi là đắc thần thông.
Thần thông có sáu thứ, một trong sáu thứ đó là Tha Tâm Thông, bởi lẽ tâm đã là một. Hiện tại, chúng ta chẳng biết tâm cảnh của người khác là vì có chướng ngại; ví như nước có sóng gợn, chẳng soi tỏ hình ảnh bên ngoài. Nếu cõi lòng bình tịnh, bản năng sẽ tự khôi phục, chứ chẳng phải là do tu hay học mà có, nếu bổn tánh quý vị chẳng có, có muốn làm thế cũng không được.
Vì sao ngài Đại Thế Chí nói "không chọn lựa?" Là vì Ngài ngoài chẳng chọn tướng sáu căn, trong chẳng chọn tánh của sáu căn. Tướng lục căn và tánh lục căn bao trùm tất cả hết thảy pháp môn, Ngài trọn không tuyển chọn, chỉ là "nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối". Mắt chẳng hướng ngoại vin nắm, cho đến ý chẳng vin theo pháp, chỉ nương vào một cái tâm tinh thuần, trong sáng, chẳng dùng đến lực dụng của sáu căn. Phần đầu là xả lìa tướng, chúng ta còn có thể làm được, phần sau là bỏ nơi tánh, chúng ta khó thể làm nổi.
"Một niệm chẳng sanh" là Tịnh, niệm mà vô niệm vậy. Muốn cầu tịnh niệm thành tựu thì "nhiếp trọn sáu căn" sẽ được viên mãn. Hai câu này hỗ trợ sau, thành lập nhau, có thể coi là nhân quả của nhau. Chỉ có một câu A Di Đà Phật, niệm lâu ngày đến nỗi câu A Di Đà Phật ấy cũng chẳng chấp trước, niệm không ngừng, chẳng còn hữu niệm lẫn vô niệm. Hữu niệm lẫn vô niệm đều không còn thì gọi là "vô niệm", hữu niệm lẫn vô niệm đều chẳng chấp trước. Phàm phu chấp Hữu, Nhị Thừa chấp Không, Bồ Tát chẳng chấp trước cả hai, nên gọi là Trung Đạo. "Nhất tâm hệ Phật" (một lòng khăng khắng nơi Phật) gọi là "niệm", thường thường nghĩ đến lời dạy dỗ, phương pháp, lý luận, cảnh giới của Phật, giữ mãi trong tâm, chẳng nghĩ đến điều gì khác, gọi là "nhất tâm hệ Phật".
Tiếng Phạn Tam Ma Địa, Hán dịch là Đẳng Trì. Phàm phu có nhân ngã, thị phi, cao thấp. Ly khai hết thảy phân biệt, chấp trước chính là bình đẳng, tâm ta bình đẳng chính là giống với chư Phật, Bồ Tát bình đẳng, dùng tâm thanh tịnh bình đẳng có thể soi rõ vạn pháp, đấy chính là trí huệ chân thật. Tâm bình đẳng còn gọi là thiền định, cũng giống như kinh Vô Lượng Thọ bảo là "thanh tịnh, bình đẳng, giác". Nói trên mặt Sự thì gọi là Niệm Phật Tam Muội, nói trên mặt Lý thì gọi là Tự Tánh Phật.
Ngẫu Ích đại sư nói: "Pháp môn niệm Phật, trọn chẳng có gì là lạ lùng, đặc biệt cả, chỉ có tin tưởng sâu xa, tận lực hành trì là cốt yếu mà thôi". Phật dạy: "Nhược nhân đản niệm Di Đà Phật, thị danh vô thượng thâm diệu thiền." (Nếu ai chỉ niệm đức Phật A Di Đà, đó gọi môn thiền định sâu xa, mầu nhiệm vô thượng). Câu này lấy từ kinh Đại Tập. Niệm Phật với tham thiền, xét về thành tựu chẳng hai, chẳng khác. Ngài Thiên Thai nói: "Bốn thứ tam muội cùng có tên là Niệm Phật, nhưng Niệm Phật Tam Muội là vua trong các tam muội", [những câu nói như thế] đều là khen ngợi niệm Phật.
Liên Trì đại sư nói: "Một câu Di Đà bao trùm tám giáo, thâu trọn năm tông, cốt sao tin tới nơi, giữ cho ổn, thẳng thừng mà niệm, thề chẳng biến đổi, sẽ quyết định được vãng sanh. Một khi được vãng sanh, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển, các thứ pháp môn đều được hiện tiền". Đại sư Liên Trì sống trong khoảng niên hiệu Vạn Lịch đời Minh, thoạt đầu học Giáo, sau đó tham Thiền, căn cơ Nho Gia lẫn Đạo Gia đều thâm hậu, tuổi già chuyên tâm niệm Phật, là tổ sư thứ tám của Tịnh Tông. Liên Trì đại sư nói: "Có thể thật sự niệm Phật, buông thân tâm, thế giới xuống, chính là đại bố thí. Chẳng khởi tham, sân, si nữa chính là đại trì giới. Chẳng kể thị phi nhân ngã, chính là đại nhẫn nhục. Chẳng gián đoạn, chẳng xen tạp chính là đại tinh tấn. Chẳng còn vọng tưởng rong ruổi chính là đại thiền định. Chẳng bị những ngã rẽ khác làm lầm lạc chính là đại trí huệ".
Luận đến Bố Thí thì Bố Thí rất trọng yếu đối với việc tu hành. Tôi nghĩ nhân duyên học Phật của chính mình thật là tốt đẹp, toàn gặp gỡ những bậc giỏi giang. Tôi học Phật năm hai mươi sáu tuổi, trước tiên theo học với thầy Phương Đông Mỹ, khi đã tiếp xúc với kinh điển bèn bái phỏng Chương Gia đại sư để thỉnh giáo. Lần gặp Ngài đầu tiên, tôi chẳng biết lễ mạo ra sao, vừa chạm mặt bèn hỏi ngay: "Đại Thừa Phật pháp rất hay, có phương pháp nào hay ho để tôi mau chóng tấn nhập chăng?" Ngài nhìn tôi, không nói một câu. Ngài nhìn tôi, tôi cũng nhìn trả. Nhìn tôi độ chừng nửa tiếng, Ngài buông một chữ: "Có". Nói xong, không nói thêm gì nữa.
Ước chừng năm phút sau, Ngài lại nói: "Thấy rỗng toang, buông xuống". Toàn thể thân hình, thái độ của Ngài đang ở trong Định. Tôi lại hỏi: "Bắt đầu từ đâu để thực hiện?" Lại đợi thật lâu sau, Ngài mới buông hai chữ "bố thí". Ngày đầu tiên gặp mặt, bấy nhiêu thời gian chỉ nói có mấy câu. Sau cùng từ biệt, Ngài đưa ra tận cửa, Ngài nói: "Hôm nay tôi nói cho ông sáu chữ, hy vọng ông thực hiện trong sáu năm cho tốt". Về sau, thật sự tôi làm theo đúng lời Ngài nói. Trong Lục Độ của Bồ Tát, Bố Thí đứng đầu. Gì cũng buông xuống hết, Bồ Tát từ sơ phát tâm cho đến khi thành Phật, chỉ có mỗi việc "Bố Thí" mà thôi.
Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương lược giảng hết.
(Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa dịch xong ngày 07 tháng 08 năm 2004)
(1) Lục phàm: chỉ sáu cõi phàm trong mười pháp giới, tức là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la, người, trời.
(2) Tứ thánh: bốn bậc thánh: Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, và Phật. Hiểu theo nghĩa hẹp là bốn quả vị Thanh Văn: Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm và A La Hán.
(3) Ở đây Hòa Thượng mượn thuật ngữ "truy tầm long mạch" của thuật Địa Lý Phong Thủy để diễn tả ý: nắm chắc, truy tìm tận gốc, biết rành rẽ mọi hiện tượng, thấy được bản thể, hiểu thấu mọi hiện tượng lưu xuất từ bản thể.
(4) Tứ Gia Hạnh: tức là Noãn pháp, Đảnh pháp, Nhẫn pháp, Thế Đệ Nhất pháp (theo từ điển Phật học của Đoàn Trung Còn).
(5) Thất tình: bảy thứ tình cảm của con người: Hỷ (mừng), nộ (giận), ai (đau buồn), cụ (sợ), ái (yêu thích), ố (ghét), dục (muốn). Cũng có sách giảng là hỷ, nộ, ưu (lo lắng), tư (nghĩ ngợi), bi (thương xót), khủng (sợ sệt), kinh (hoảng hốt, sợ hãi).
(6) Tam Không: Ngã không (còn gọi là Nhân Không), Pháp Không, và Câu Không (ngã và pháp đều không). Duy Thức học còn lập ra ba thứ không khác, đó là: vô tánh không, dị tánh không và tự tánh không. Luận Hiển Dương Thánh Giáo lại đề xướng ba thứ không khác: vô thể không, viễn ly không và trừ khiển không. Thông thường, khi nói đến tam không, ta thường hiểu theo cách định nghĩa đầu tiên.
(7) Tam luân không tịch (còn gọi là tam luân thể không), tức là "thí không" (người thí thấy thân mình vốn là không, đã biết là vô ngã nên không có tâm mong cầu phước báo), "thọ không" (không thấy có người nhận của bố thí, nên không khởi tâm kiêu mạn), và "thí vật không" (thể nhận bản chất các pháp là không, nên vật được dùng để bố thí cũng là không, không khởi tâm tham). Bố thí tam luân không tịch chính là nội dung của Bố Thí Ba La Mật.
(8) Tướng Phần: thuật ngữ Duy Thức học chỉ ảnh tượng do các sự vật hữu vi và vô vi từ thế giới bên ngoài ảnh hiện vào tâm.
(9) Hưng cừ: Có người cho hưng cừ chính là củ nén bên ta, củ nhỏ có mùi hăng như tỏi, nhưng có sách lại bảo hưng cừ không phải là nén. Ngài Tịnh Không lại ghi chú là hành tây.
(10) Chức vụ Hồng Y Giáo Chủ (cardinal) bên Công Giáo, Tàu gọi là Chủ Giáo.
-o0o-
💠 PHẬT THUYẾT ĐƯƠNG LAI BIẾN KINH GIẢNG KÝ (Chủ giảng: Hoà Thượng Thích Tịnh Không)
Phật Thuyết Đương Lai Biến Kinh Giảng Ký
Hoà Thượng Thích Tịnh Không Chủ Giảng
Năm 1992 tại liên xã Đại Giác, Cựu Kim Sơn, Hoa Kỳ
Tâm Huệ ghi, Hàn Anh kiểm giảo
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
-o0o-
Kinh này kinh văn không dài, nhưng rất khế cơ, có thể nói là từ bộ kinh nhỏ này chúng ta có thể nhận ra từ ba ngàn năm trước đây, đức Phật đã sớm nhìn thấy tình trạng xã hội hiện tại.
Kinh này mang tựa đề “Phật thuyết Đương Lai Biến Kinh”. Giải thích đơn giản,“Đương Lai” chỉ thời đại hiện tại của chúng ta, “Biến” nghĩa là biến hóa, tức là nói hiện tại con người biến hóa, thế giới biến hóa, ngay cả Phật giáo cũng bị biến hóa, sau khi bị biến hóa là tốt hay xấu? Người tu hành nên thành tựu đạo nghiệp của chính mình như thế nào đây? Bản kinh này giảng đúng vào những vấn đề thiết thân của chúng ta.
Bàn đến chuyện thế giới biến hóa, phỏng chừng hai mươi, ba mươi năm nay thật là dữ dội, khó thể nói là cái thuyết “ngày thế giới tận cùng” của Cơ Đốc Giáo đã xảy đến hay chưa?
Bàn về nhân tâm biến hóa, do hiện đại thông tin phát đạt, quan sát nhân tâm mọi địa phương chẳng khó khăn gì. Kinh dạy: “Y báo chuyển theo chánh báo”. “Chánh báo” chỉ thân tâm của con người. “Y báo” chỉ hoàn cảnh sanh hoạt. Hoàn cảnh xã hội hiện tại an hay nguy hoàn toàn phụ thuộc vào tâm con người nhân hậu hay tệ bạc. Từ cổ đến nay, đã có những việc an hay nguy trong lịch sử làm chứng. Xưa nay, trong nước, ngoài nước đều lấy việc quán sát nhân tâm để suy lường cát - hung, phước - họa; bởi thế, rất coi trọng quan niệm luân thường, đạo lý. Thế nhưng con người hiện đại chẳng màng đến những quan niệm đạo đức đó nữa, mà lấy chuyện tranh danh đoạt lợi làm chủ, bởi thế đến nỗi xã hội chẳng an định.
Lại xem trong Phật giáo, trong hai ngàn năm chẳng biến hóa lớn lao chi lắm là vì gìn giữ được những tiêu chuẩn, nguyên tắc. Kể từ mấy năm đề cao dân chủ tự do gần đây, cường điệu tự do ngôn luận, tự do xuất bản, Phật giáo phải đương đầu với những biến hóa chẳng thể dự liệu trước được. Nếu như chúng ta chẳng lắng lòng quán sát và tư duy, sẽ không có cách nào đối diện với những biến thiên của xã hội hiện thực, chẳng biết tu hành như thế nào? Trong bản kinh này, đức Phật đã chỉ dạy cho chúng ta [nên làm như thế nào].
Chánh kinh:
Văn như thị: nhất thời, Phật tại Xá Vệ quốc, Kỳ Thọ, Cấp Cô Độc viên, dữ đại tỳ-kheo chúng câu, tỳ-kheo ngũ bách cập chư Bồ Tát.
(Nghe như thế này: một thời, đức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, cùng các đại tỳ-kheo nhóm họp, năm trăm tỳ-kheo và các Bồ Tát).
“Văn như thị” là câu văn được dùng trong giai đoạn đầu của việc phiên dịch kinh văn, nó cũng chính là “như thị ngã văn”. Trong đoạn Tự Phần này, cũng có đủ sáu thứ thành tựu giống như [các kinh khác]. “Văn như thị” là Văn Thành Tựu. “Như thị” là Tín Thành Tựu. “Nhất thời” là Thời Thành Tựu. “Phật” là Chủ Thành Tựu. “Xá Vệ quốc, Kỳ Thọ Cấp Cô Độc viên” là Xứ Thành Tựu. “Dữ đại tỳ-kheo chúng câu. Tỳ-kheo ngũ bách cập chư Bồ Tát” là Chúng Thành Tựu.
Địa điểm đức Phật giảng kinh này và kinh A Di Đà giống nhau. Trong lúc ấy có thường tùy chúng (2) và Bồ Tát chúng hiện diện. Bởi thế, kinh này không chỉ giảng riêng về pháp Tiểu Thừa mà là giảng về căn bản tu hành cho cả pháp Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa.
Chánh kinh:
Nhĩ thời Thế Tôn cáo chư tỳ-kheo:
- Đương lai chi thế, đương hữu tỳ-kheo, nhân hữu nhất pháp bất tùng pháp hóa, linh pháp hủy diệt, bất đắc trường ích. Hà vị vi nhất? Bất hộ cấm giới, bất năng thủ tâm, bất tu trí huệ, phóng dật kỳ ý, duy cầu thiện danh, bất thuận đạo giáo, bất khẳng cần mộ độ thế chi nghiệp. Thị vi nhất sự linh pháp hủy diệt.
(Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các tỳ-kheo:
- Trong đời tương lai, sẽ có tỳ-kheo nhân vì có một pháp chẳng thuận theo pháp giáo hóa, khiến cho pháp bị hủy diệt, chẳng được lợi ích lâu dài. Thế nào là một pháp? Chẳng giữ cấm giới, chẳng thể giữ tâm, chẳng tu trí huệ, buông lung tâm ý, chỉ cầu tiếng tốt, chẳng thuận đạo giáo, chẳng chịu siêng năng, kính mộ sự nghiệp độ đời. Đó là một sự khiến cho pháp bị hủy diệt)
Đoạn kinh này là đoạn thứ nhất của phần Chánh Tông. Ý nghĩa của toàn bộ đoạn kinh này là lấy ngay con người hiện đại để thuyết pháp, cũng có thể nói nó là một loại dự ngôn. Nói đơn giản, Phật bảo cùng các tỳ-kheo đang hiện diện, trong tương lai sẽ có một hạng tỳ-kheo do vì chẳng tùy thuận giáo pháp của Phật mà hoằng hóa, làm cho Phật pháp đi vào chỗ hủy diệt, khiến cho những người y pháp tu học sẽ chẳng thể đạt được lợi ích nơi Phật pháp. Phật lại nêu lên sáu sự việc, bất cứ sự việc nào cũng đủ làm cho chánh pháp bị hủy diệt.
Thứ nhất là “chẳng giữ giới cấm”, tức là chỉ hạng người coi thường Giới Luật, chẳng thể trì giới. Trong kinh nói: “Thiền là tâm Phật, Giáo là ngôn ngữ của Phật, Giới Luật là hành trì của Phật”. Nếu như vứt bỏ Giới Luật, Thiền và Giáo thành chuyện bàn suông, Phật pháp chẳng thể tồn tại trong thế gian. Nói đơn giản: Một quốc gia phải nhờ vào pháp trị để ổn định nhân tâm và duy trì trật tự xã hội an toàn. Giới Luật của nhà Phật giống như pháp luật của quốc gia, Phật giáo dùng Giới Luật để uốn nắn thân tâm của đệ tử Phật. Giới Luật lại giống như những lễ tiết do Khổng, Mạnh đề xướng trong Nho Giáo. Lễ tiết là căn bản, một khi bỏ lễ tiết đi chính là đánh mất căn bản, còn bàn chi chuyện học đạo nữa! Giới giống như Lễ, đều là căn bản. Học Phật mà buông bỏ căn bản, còn bàn chi chuyện khai hoa kết quả?
Vì sao nói Giới là căn bản của việc học Phật? Phật pháp bất luận là Tiểu Thừa hay Đại Thừa, đều kiến lập trên cơ sở ba Vô Lậu Học Giới - Định - Huệ. Có giữ Giới thì Định mới có thể phát sanh, nhân Định mà khai Huệ. Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có, nhưng chỉ có trì giới thì mới có thể khiến cho tâm thanh tịnh, bình đẳng. Tinh thần của Giới Luật chính là như tổ Ấn Quang đã dạy: “Đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện”. Thiện hay ác chỉ trong một niệm tâm; trừ sạch phân biệt, vọng tưởng, chấp trước, tâm thanh tịnh sẽ tự nhiên hiện tiền. Cõi lòng thanh tịnh ắt trí huệ mở rộng. Đức Phật hoàn toàn do sự việc này mà xuất thế; bởi thế Giới Luật mang tánh chất trọng yếu là do đây.
Thứ hai, “chẳng thể giữ tâm”: hết thảy pháp đều do tự tâm biến hiện ra, tâm thiện thì vạn pháp đều thiện, tâm ác thì vạn pháp đều ác. Xã hội hiện tại thoạt nhìn tưởng là tiến bộ, nhưng thật ra suy thoái rất nhiều. Bởi lẽ, trước kia mọi người sanh sống an cư lạc nghiệp, còn thế giới hiện tại nơi nào cũng động loạn, nguyên nhân là do con người hiện tại tâm chẳng thuần hậu, chẳng màng đạo nghĩa, chỉ quan tâm đến lợi hại, phải có lợi cho mình mới thành bè bạn, kẻ nào bất lợi cho mình liền thành địch nhân. Ai nấy chẳng giữ lấy cái tâm lành, sao xã hội an ổn cho được? Bậc thánh nhân thời cổ là Mạnh Tử đã nói: “Học vấn chi đạo vô tha, cầu kỳ phóng tâm nhi dĩ hỹ” (đạo học vấn không có gì khác, cốt sao phóng tâm mà thôi!). Ý Ngài nói: Cái đạo cầu học chỉ cốt sao thâu hồi vọng tưởng tạp niệm, cũng giống như kinh Di Đà dạy “nhất tâm bất loạn”.
Thứ ba, “chẳng tu trí huệ”: Tương phản của trí huệ là ngu si. Người ngu si chẳng biết mình ngu si, suốt ngày điên đảo loạn tưởng; chân - giả, tà - chánh chẳng phân, thường coi tà pháp là chánh pháp, tưởng chánh pháp là tà pháp, đáng thương vô cùng! Có hai phương pháp tu trí huệ: Một là Thiền Định (tham thiền); hai là như bên Giáo nói “đọc tụng kinh điển Đại Thừa”. Đọc tụng kinh điển Đại Thừa thì cũng phải hiểu mới lãnh hội được; nếu không, vẫn rớt vào ngu si như cũ. Đọc kinh cũng giống hệt như Thiền Định, chuyên tu tâm thanh tịnh. Tụng kinh phải giống như lấy đá đè cỏ, phải từng chữ phân minh, lúc tụng kinh chẳng được suy lường lung tung ý nghĩa kinh văn. Nếu như vọng niệm có hiện tiền, đừng quan tâm gì đến nó, cứ tiếp tục đọc tụng, trừ khử vọng tưởng, chấp trước, chẳng nghiên cứu thảo luận, đợi khi nào trí huệ hiện tiền, tự nhiên bản tánh quang minh hiển phát.
Thứ tư là “buông lung tâm ý”: tức là như thế nhân nói “chạy theo lòng ham muốn trong tâm”. Nói đơn giản là các vọng niệm Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi khởi lên tác dụng trong tâm.
Thứ năm là “chỉ cầu tiếng tốt”: tức là như người đời thường nói “nâng cao mức độ người khác biết đến tên mình”. Tình hình Phật giáo hiện tại cũng có biến chuyển, hiện thời có Phật giáo mang hình thức tôn giáo, Phật giáo mang tánh chất học thuật, Phật giáo tà giáo, và Phật giáo mang hình thức truyền thống. Trước mắt còn phát hiện một loại Phật giáo phô trương hoa mỹ, quảng cáo ầm ĩ, có những hoạt động bon chen cùng thời đại, bày vẽ náo nhiệt, mười phần săn đón hiện đại hóa, trọn chẳng có nội dung Phật giáo chân chánh. Đây cũng là một hiện tượng trong đời loạn vậy.
Thứ sáu là “chẳng thuận đạo giáo, chẳng siêng năng, kính mộ sự nghiệp độ đời”: Câu này chỉ những tỳ-kheo hoằng pháp chẳng tuân lời Phật dạy dỗ mà tu hành, chỉ là tu hành ngoài cửa miệng, thân hạnh chẳng tu. “Siêng năng, kính mộ sự nghiệp độ đời” nghĩa là người tu hành ngưỡng mộ Phật pháp, thực hiện sự nghiệp tự lợi, lợi tha. Thế nhưng người tu hành trong thời Mạt Pháp, đạo tâm tu hành chẳng kiên định, chẳng tin vào thiện căn của chính mình, bỏ phế sự nghiệp tự độ và hóa độ chúng sanh, đáng tiếc vô cùng, khiến cho Phật pháp càng thêm đọa lạc.
Dưới đây là đoạn kinh văn thứ hai trong phần Chánh Tông. Phật bảo các hàng tỳ-kheo, còn có hai sự kiện khiến cho Phật pháp bị hủy diệt.
Chánh kinh:
Phật cáo tỳ-kheo:
- Phục hữu nhị sự, linh pháp hủy diệt, hà vị vi nhị?
Nhất, bất hộ cấm giới, bất nhiếp kỳ tâm, bất tu trí huệ, súc thê dưỡng tử, phóng tâm tứ ý, cổ tác trị sanh, dĩ cộng tương hoạt.
Nhị, bạn đảng tương trước, tắng phụng pháp giả, dục linh hãm đọa, cố vi ngôn nghĩa, vị chi du siểm, nội phạm ác hạnh, ngoại dương thanh bạch.
Thị vi nhị sự, linh pháp hủy diệt.
(Phật bảo tỳ-kheo:
- Lại có hai sự khiến pháp hủy diệt, những gì là hai?
Một: chẳng giữ cấm giới, chẳng nhiếp tâm ý, chẳng tu trí huệ, chứa vợ nuôi con, buông lung tâm ý, buôn bán kiếm lợi để cùng chung sống)
Hai: đắm chấp bè đảng, ghét kẻ kính pháp, muốn cho kẻ ấy bị hãm đọa, cố làm [ra vẻ] nói năng tốt lành, thật ra là dua dối, siểm nịnh. Trong phạm ác hạnh, ngoài giả vờ thanh bạch.
Đấy là hai sự khiến pháp hủy diệt).
Thứ nhất là “chẳng giữ cấm giới, chẳng nhiếp tâm ý (chẳng thể giữ tâm), chẳng tu trí huệ”: Ở trên đã giải thích rồi, ở đây chẳng cần phải nhắc lại nữa.
“Nuôi con chứa vợ”: trong thời kỳ Mạt Pháp, người xuất gia bèn nuôi dưỡng vợ con. Trước kia, trong thời kỳ Duy Tân dưới đời Minh Trị Thiên Hoàng ở Nhật Bản, vì chánh sách quốc gia, người xuất gia nhất định phải lấy vợ sanh con rồi sau đó mới được phép xuất gia. Đến nay, ngoại trừ những vị tăng khổ hạnh trên núi cao, những người xuất gia dưới đồng bằng của Nhật Bản đại đa số đều có gia đình.
“Phóng tâm tứ ý” (buông lung tâm ý) giống như câu “phóng dật kỳ ý” [ở phần trên].
“Buôn bán kiếm lợi để cùng chung sống”: chỉ người xuất gia hiện thời tâm chẳng hướng đến đạo, sanh sống chẳng nhờ vào hai chúng tại gia cúng dường, bọn họ cũng có các cách kiếm lợi, hành vi chẳng đúng pháp như thế đó, tâm chẳng an trụ nơi đạo, nên càng chẳng thể thanh tịnh.
Thứ hai là “đắm chấp bè đảng”: chỉ người xuất gia chia phe, chia đảng, tạo ra những tổ chức nhỏ, đoàn thể nhỏ, bài xích những con người, những sự vật xung đột với quyền lợi của chính mình.
“Ghét người kính pháp”: phàm những ai tu hành chân chánh bèn nghĩ cách bài xích họ, chẳng ủng hộ, tạo đủ mọi chướng ngại.
“Cố làm ra vẻ nói năng tốt lành, thật ra là dua dối, siểm nịnh”: Những kẻ đó có thể nói lời tốt lành, chuyên môn săn đón bợ đỡ người, ngoài miệng nói nghe rất hay. Người chẳng hiểu rõ, tưởng câu nào cũng tốt lành cả, rốt cuộc bị họ lừa dối, mắc hại. Thiện tri thức chân chánh thì xử thế, đãi người, tiếp vật, thái độ hoàn toàn chẳng giống với bọn họ. Phàm những bậc thiện tri thức khuyên đời, những lời nói ra đều là “trung ngôn nghịch nhĩ” (lời thật chối tai), thế mà người đời cứ thích nghe lời dối gạt, chẳng thích nghe khuyên nhủ.
“Trong phạm hạnh, ngoài giả vờ thanh bạch”: Câu kinh này ý nói có hạng người xuất gia làm ra vẻ đạo mạo nghiêm nghị, bề ngoài giả vờ như rất đúng pháp, trang nghiêm hệt như Phật, như Bồ Tát, còn bên trong thì tư tưởng, kiến giải, hành vi, thậm chí còn kém hơn cả người ngoài đời. Hai điều nói trên là hai yếu tố khiến cho Phật pháp hủy diệt.
Chánh kinh:
Phật cáo chư tỳ-kheo:
- Phục hữu tam sự linh pháp hủy diệt, hà vị vi tam?
Nhất, ký bất hộ cấm giới, bất năng nhiếp tâm, bất tu trí huệ.
Nhị, tự độc văn tự, bất thức cú đậu, dĩ thượng trước hạ, dĩ hạ trước thượng, đầu vĩ điên đảo, bất năng giải liễu nghĩa chi sở quy, tự dĩ vi thị.
Tam, minh giả ha chi, bất tùng kỳ giáo, phản hoài sân hận, vị tương tật đố, thức nghĩa giả thiểu, đa bất biệt lý, hàm vân vi thị.
Thị vi tam sự, linh pháp hủy diệt.
(Phật bảo các tỳ-kheo:
- Lại có ba sự khiến pháp hủy diệt, những gì là ba?
Một, đã chẳng giữ cấm giới thì chẳng thể nhiếp tâm, chẳng tu trí huệ.
Hai, tự đọc văn tự, chẳng biết chấm câu, đem trên đặt xuống dưới, lấy dưới đặt lên trên, đầu đuôi điên đảo, chẳng thể hiểu nghĩa lý trọn vẹn đi về đâu, tự cho là đúng.
Ba, người sáng suốt quở trách, chẳng tuân lời dạy, ngược lại sân hận, bảo là [kẻ ấy] ghen ghét. Người biết nghĩa thì ít, đa số chẳng phân biệt được, đều cho là đúng.
Đó là ba sự khiến pháp hủy diệt)
Đoạn kinh này là đoạn thứ ba của phần Chánh Tông. Phật nói có ba sự việc có thể khiến cho Phật pháp trong thế gian này dần dần bị hủy diệt mất.
Thứ nhất là “đã chẳng giữ cấm giới thì chẳng thể nhiếp tâm, chẳng tu trí huệ”: ở phần trên đã giải thích, ở đây chẳng cần phải nhắc lại.
Thứ hai, “tự đọc văn tự, chẳng biết chấm câu, đem trên đặt xuống dưới, lấy dưới đặt lên trên, đầu đuôi điên đảo, chẳng thể hiểu nghĩa lý trọn vẹn đi về đâu, tự cho là đúng”: Câu này ý nói: Đối với học vấn thế gian, trình độ văn học chẳng giỏi, bèn đem những dấu chấm, dấu phẩy… trong văn chương ra sử dụng sai lầm, khiến câu cú trên dưới chẳng thuận, tự phân đoạn để hiểu nghĩa, chẳng phù hợp với ý gốc của nguyên văn.
Nói theo phương diện học Phật, kinh điển nhà Phật bất luận Tiểu Thừa hay Đại Thừa đều từ Chân Như Bản Tánh của đức Phật mà phát huy, lưu xuất. Dù so với cổ văn Trung Quốc, văn tự của những kinh Phật đã được phiên dịch dễ đọc hơn nhiều, nhưng những nghĩa lý sâu thẳm trong ấy tuyệt đối chẳng dễ gì thể hội được. Bởi thế, chúng sanh thời Mạt Pháp trí huệ cạn mỏng, rất dễ hiểu sai lệch nghĩa kinh, chẳng thể chấm câu, ngắt mạch phân minh, thường đọc sai câu văn, câu trước chẳng phù hợp câu sau, đầu đuôi điên đảo, chẳng thể hiểu rõ triệt để ý nghĩa kinh, rồi tự cho mình là đúng, lại còn dạy lầm người khác, hậu quả rất đáng lo ngại!
Thứ ba là “người sáng suốt quở trách, chẳng tuân lời dạy, ngược lại sân hận, bảo là [kẻ ấy] ghen ghét. Người biết nghĩa thì ít, đa số chẳng phân biệt được, đều cho là đúng. Đó là ba sự khiến pháp hủy diệt”: Trong thời kỳ Mạt Pháp, có thể thành tựu đạo nghiệp của chính mình hay không là do có hiểu được một đoạn kinh văn [hay không?] Đoạn kinh văn này ý nói: Người minh tâm kiến tánh hoặc là người tâm địa quang minh, trông thấy hành nhân đi lầm đường, do hảo ý bèn chỉ dạy cho, nhưng đối phương chẳng những không nghe, chẳng thể tuân phục sửa đổi cho đúng, trái lại còn ôm lòng ghen ghét, căm hận, thậm chí còn mưu toan hãm hại thiện tri thức. Rất nhiều người chẳng biết nghĩa chân thật của đức Như Lai đã nói, đối với sai lầm đó chẳng thể phân biệt, thường lẫn lộn điên đảo thiện - ác. Người ta nói vậy thì cũng hùa theo quần chúng, ngược ngạo thừa nhận những gì sai lầm là đúng, ủng hộ kẻ tri kiến bất chánh, lợt lạt, xa lìa thiện tri thức, kết quả là tạo thành nghiệp nhân ba ác đạo.
Ba điều trên đây tuy chưa làm cho Phật pháp bị đoạn diệt trên thế gian này, nhưng làm cho Phật giáo bị biến chất. Trước đây, thầy Lý Bỉnh Nam có nói: “Phật pháp suy vi dần dần”. Dưới cái nhìn của người hiện đại, lời nói này khó có thể tin tưởng hoàn toàn. Bởi lẽ, hiện thời khoa học phát đạt, ấn loát nhanh chóng, có thể in kinh Phật với số lượng lớn, chẳng dễ gì thất truyền, khác xa trước kia, một cuốn sách khó tìm, hễ có được một cuốn là thù thắng lắm. Nay gần như mỗi cá nhân trong tay có một bộ Đại Tạng Kinh, sao lại nói là Phật pháp dần dần suy vi cho được? Đến giờ đây tôi mới đột nhiên đại ngộ: Nếu dùng cái tâm phàm phu của chúng ta giải thích kinh Phật thì kinh sách dù có nhiều vẫn hoàn toàn là biến chất, nghĩa là đem Chân Như Bổn Tánh của Như Lai đổi thành ý thức của phàm phu. Nói cách khác, dùng tâm ý thức phàm phu hiểu cong quẹo ý nghĩa kinh Phật. Bởi thế, Phật pháp bị tiêu mất, đây là vấn đề nghiêm trọng vô cùng.
Chánh kinh:
Phật cáo chư tỳ-kheo:
- Phục hữu tứ sự linh pháp hủy diệt, hà vị vi tứ?
Nhất, tương lai tỳ-kheo dĩ xả gia nghiệp, tại không nhàn xứ, bất tu đạo nghiệp.
Nhị, hy du nhân gian, hội náo chi trung, hành lai đàm ngôn, cầu hảo ca-sa, ngũ sắc chi phục.
Tam, cao thính viễn thị, dĩ vi ỷ nhã, tự dĩ cao đức, vô năng cập giả, dĩ tạp toái trí, tỷ nhật nguyện chi minh súc dã.
Tứ, bất nhiếp tam sự, bất hộ căn môn, hành phụ nữ gian, tuyên văn sức từ, đa ngôn ngẫu hợp, dĩ động nhân tâm, sử thanh biến trược, thân hạnh hoang loạn, chánh pháp phế trì.
Thị vi tứ sự, linh pháp hủy diệt.
(Phật bảo các tỳ-kheo:
- Lại có bốn sự khiến pháp hủy diệt, những gì là bốn?
Một, trong tương lai tỳ-kheo đã bỏ gia nghiệp, ở chỗ nhàn vắng chẳng tu đạo nghiệp.
Hai, ưa thích dạo chơi những chỗ náo nhiệt trong nhân gian, qua lại trò chuyện, cầu ca-sa tốt, y phục năm màu.
Ba, nghe cao nhìn xa, cho là khéo nhã, tự cho là đức độ cao trọng, không ai bằng được, tự đem cái trí tạp nhạp sánh cùng ánh sáng mặt trời, mặt trăng.
Bốn, chẳng nhiếp ba sự, chẳng giữ căn môn, xen lộn phụ nữ, nói lời bóng bẩy, hay nói ve vuốt đón ý để lấy lòng người, biến trong thành đục, thân hạnh hoang loạn, bỏ phế chánh pháp.
Đó là bốn sự khiến pháp hủy diệt)
Đoạn kinh này quá nửa là phê phán người xuất gia, thuộc đoạn thứ tư trong phần Chánh Tông. Phật bảo các tỳ-kheo: “Trong tương lai có bốn sự việc sẽ khiến cho Phật pháp hủy diệt”.
Thứ nhất, “trong tương lai tỳ-kheo đã bỏ gia nghiệp, ở chỗ nhàn vắng chẳng tu đạo nghiệp”. Điều quan trọng nhất ở đây là “ở chỗ nhàn vắng”. Câu này không có nghĩa là phải xa lìa đô thị, tìm vào núi hoang, chỗ không một bóng người để tu hành, cũng chẳng có nghĩa là chơi không nhàn rỗi, mà chính là ngày nay chúng ta sống trong xã hội làm việc mưu sinh, khi nào xong việc khi đó là “nhàn vắng”. Người xuất gia vì bị công việc tại gia phiền nhiễu, bèn phát tâm xuất gia, chứ không phải muốn tìm nơi nhàn rỗi. Xuất gia có công việc của người xuất gia. Bởi thế, người xuất gia phải dùng những lúc nhàn rỗi để tu hành tập đạo. Câu này nói đơn giản có nghĩa là: “Trong tương lai, các tỳ-kheo bỏ những sự nghiệp kinh doanh kiếm sống của đời tại gia đi xuất gia, nhưng chẳng tu đạo, chẳng tu hành, chẳng gánh vác gia nghiệp của Như Lai, bỏ lỡ quang âm”.
Vì sao nói chẳng tu đạo nghiệp? Tông chỉ giáo dục của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật là nhằm làm cho chúng ta nhận thức được chân tướng của nhân sanh vũ trụ. “Vũ trụ” chỉ hoàn cảnh sanh sống của chúng ta; “nhân sanh” chỉ chính mình. Chúng ta tu hành là tu đến khi tự mình giác ngộ, đó là chân tu hành; ngược lại là mê hoặc điên đảo. Mục đích xuất gia tu hành là học theo đức năng, giác đạo của Phật, chẳng mê hoặc, điên đảo, thực sự hiểu chân tướng của nhân sanh, vũ trụ. Ai có thể tự ngộ, ngộ được Thật Tướng của các pháp, thì lục căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần sẽ chẳng bị cảnh giới xoay chuyển, tâm địa thanh tịnh, một dạ hướng về đạo, tự nhiên gánh vác được gia nghiệp của Như Lai, làm công tác hoằng pháp lợi sanh. Đấy là đạo nghiệp người xuất gia nên tu, điều người xuất gia phải làm là tu hành, hoàn toàn chẳng phải là phế bỏ sự thế gian, đến chùa viện mong cầu nhàn hạ thanh tịnh, bỏ uổng quang âm.
Thứ hai, “ưa thích dạo chơi những chỗ náo nhiệt trong nhân gian, qua lại trò chuyện, cầu ca-sa tốt, y phục năm màu”: Đây là hiện tượng thứ năm “Phật giáo phô trương hoa mỹ” trong Phật giáo hiện tại, hoàn toàn trái nghịch lời Phật răn dạy. Như các pháp hội giảng kinh, chú tâm bày vẽ hoa lệ, chưng dọn đạo tràng đẹp đẽ, choáng lộn, không có chút khí phận thanh tịnh trang nghiêm nào; thậm chí rải hoa, ca xướng v.v... hội trường thiết kế giống như sân khấu trình diễn, bày ra những kiểu chẳng tự nhiên, xem không giống ai cả. Người xuất gia cầu ca-sa mỹ lệ. Tác pháp như vậy khiến thế nhân trong tương lai chẳng còn tôn kính người xuất gia nữa.
Thứ ba, “nghe cao nhìn xa, cho là khéo nhã, tự cho là đức độ cao trọng, không ai bằng được, tự đem cái trí tạp nhạp sánh cùng ánh sáng mặt trời, mặt trăng”. Đây là nói về ngạo mạn, tự mình ngạo nghễ, coi thường hết thảy, đem thế trí biện thông sánh với trí huệ chân thật của chư Phật, Bồ Tát, thậm chí cho rằng chư Phật, Bồ Tát cũng không bằng được mình. Có kẻ còn nói quá đáng: “Kinh điển đều chẳng thể nhờ cậy được”, khác nào chính họ đã thật sự thành tiên, thành Phật rồi; bởi thế phải soạn kinh mới, cho rằng kinh điển cũ đều đáng bị đào thải. Đây chẳng những làm cho pháp bị hủy diệt, mà còn là đẩy nhanh tốc độ hủy diệt pháp.
Thứ tư, “chẳng nhiếp ba sự, chẳng giữ căn môn, xen lộn phụ nữ, nói lời bóng bẩy, hay nói ve vuốt đón ý để lấy lòng người, biến trong thành đục, thân hạnh hoang loạn, bỏ phế chánh pháp. Đấy là bốn sự khiến pháp hủy diệt”.
“Chẳng nhiếp ba sự” là chẳng giữ gìn ba nghiệp thân, ngữ, ý. “Chẳng giữ gìn căn môn” là chẳng giữ gìn sáu căn. Hai câu trên nói gộp lại chính là ý “chẳng giữ Giới Luật” đã nói ở phần trên, chẳng giữ quy củ, thậm chí ngay đến cả lễ pháp thế gian cũng chẳng đoái hoài.
“Xen lộn phụ nữ, nói lời bóng bẩy, hay nói ve vuốt đón ý để lấy lòng người, biến trong thành đục, thân hạnh hoang loạn, bỏ phế chánh pháp”: Trong đoạn này, so ra câu chẳng dễ hiểu là câu “đa ngôn ngẫu hợp” (hay nói ve vuốt đón ý). Kinh này được dịch vào thời Nam Bắc Triều, cách đời Hán không xa lắm. Đương thời, chữ “ngẫu” là một thuật ngữ rất phổ thông, có nghĩa là “hoa ngôn xảo ngữ đón trước ý người”, nghĩa là nói năng rất khéo. Khéo nói ở đây chẳng giống với “ái ngữ” trong Tứ Nhiếp Pháp của nhà Phật; Tứ Nhiếp Pháp lấy trí huệ làm cơ sở. Nói cách khác, người xuất gia chẳng dạy người khác tu hành chánh pháp, trái lại, quyến dụ người hành tà đạo, chẳng phải là chuyện tốt lành gì.
Tóm lại, đoạn kinh này có nghĩa là người xuất gia chẳng tuân thủ Giới Luật, quy củ; nhất là trong thời đại ngôn luận tự do xuất bản, kiến giải, tư tưởng hỗn loạn hiện thời, càng chẳng thể kiến lập Lục Hòa Kính, Tăng đoàn chẳng hòa mục, đánh mất công năng giáo hóa chúng sanh, bình nhật thường xen tạp với phụ nữ chẳng chút kiêng dè, nói năng chẳng trung thực, chỉ chuộng văn từ hoa lệ, đón ý người nghe, chẳng hoằng dương chánh pháp. Ngược lại còn làm những sự việc hoang loạn thân tâm như thế đó, trái nghịch pháp thanh tịnh, đi vào chỗ hỗn độn, ô trược. Nếu như có bốn sự việc đó thì Phật pháp trong thế gian dù còn giữ được hình thức, đã chẳng còn thực chất hoặc đã bị biến chất rồi.
Chánh kinh:
Phật cáo tỳ-kheo:
- Phục hữu ngũ sự, linh pháp hủy diệt, hà vị vi ngũ?
Nhất, hoặc hữu tỳ-kheo, bổn dĩ pháp cố, xuất gia tu đạo, phế thâm kinh giáo, thập nhị nhân duyên, tam thập thất phẩm, Phương Đẳng thâm diệu huyền hư trí huệ, trí độ vô cực, thiện quyền phương tiện, không, vô tướng nguyện, chí hóa chi tiết.
Nhị, phản tập tạp cú thiển mạt tiểu kinh, thế tục hạnh cố, vương giả kinh điển loạn đạo chi nguyên, háo giảng thử nghiệp, dị giải thế sự, thú đắc nhân tâm, linh kỳ hoan hỷ, nhân trí danh văn.
Tam, tân văn pháp nhân, thiển giải chi sĩ, ý dụng diệu quyết, thâm đạt chi sĩ, bất dụng vi giai.
Tứ, thiên long quỷ thần bất dĩ vi hỷ, tâm hoài ấp thích, khẩu phát tư ngôn: “Đại pháp dục diệt, cố sử kỳ nhiên, xả diệu pháp hóa, phản tuyên tạp cú”. Chư thiên lưu lệ, tốc thệ nhi khứ.
Ngũ, do thị chánh pháp sảo sảo kiến xả, vô tinh tu giả.
Thị vi ngũ sự, linh pháp hủy diệt.
(Phật bảo tỳ-kheo:
- Lại có năm sự khiến pháp hủy diệt. Những gì là năm?
Một, hoặc là có tỳ-kheo vốn vì pháp nên xuất gia tu đạo, bỏ kinh giáo sâu, Thập Nhị Nhân Duyên, Ba Mươi Bảy Phẩm, trí huệ huyền hư thâm diệu của Phương Đẳng, trí độ vô cực, thiện quyền phương tiện, không, vô tướng nguyện, ngay đến cả lễ tiết giáo hóa.
Hai, trái lại tu tập những kinh nhỏ nhoi, nhánh lá, nông cạn, những câu tạp nhạp, những hạnh thế tục, nên để kinh điển của hàng Vương Giả làm loạn nguồn đạo, thích giảng những sự nghiệp, những việc đời dễ hiểu đó cốt lấy lòng người khiến họ hoan hỷ, nhân đó có được danh văn.
Ba, người mới nghe pháp, kẻ hiểu biết kém, tưởng đó là bí quyết mầu nhiệm, bậc thông đạt sâu xa chẳng cho là hay.
Bốn, trời, rồng, quỷ thần chẳng coi đó là vui, trong lòng buồn bực, miệng nói như thế này: “Đại pháp sắp diệt nên đến nỗi như thế, bỏ việc giáo hóa diệu pháp, trái lại tuyên nói những câu tạp nhạp”. Chư thiên đẫm nước mắt, nhanh chóng bỏ đi.
Năm, do vậy pháp dần dần thấy bị bỏ phế, không người tinh ròng tu tập.
Đó là năm sự khiến pháp hủy diệt)
Đây là đoạn cuối cùng trong phần Chánh Tông. Phật bảo các tỳ-kheo lại có năm sự khiến pháp bị hủy diệt.
Thứ nhất, “hoặc là có tỳ-kheo vốn vì pháp nên xuất gia tu đạo, bỏ kinh giáo sâu, Thập Nhị Nhân Duyên, Ba Mươi Bảy Phẩm, trí huệ huyền hư thâm diệu của Phương Đẳng, trí độ vô cực, thiện quyền phương tiện, không, vô tướng nguyện, ngay đến cả lễ tiết giáo hóa”. Đoạn này ý nói có những tỳ-kheo phát tâm chân chánh xuất gia, khó có vô cùng, nhưng bọn họ vứt bỏ những kinh điển sâu rộng chẳng học, chỉ xem những văn tự thô thiển, hoặc là những cuốn Phật Học Khái Luận, Phật Học Nhập Môn… do người hiện thời biên soạn, càng xem càng thích học văn Bạch Thoại, còn kinh điển nguyên văn xem chẳng hiểu thì chẳng chịu tích cực thâm nhập, tìm hiểu. Ngược lại, đối với Thập Nhị Nhân Duyên, Ba Mươi Bảy Đạo Phẩm, kinh điển Phương Đẳng v.v… là những pháp điển trí huệ cao sâu, thiện xảo tột bậc, thiện quyền phương tiện, họ chẳng thèm nghiên cứu kỹ, chẳng phát nguyện học tập, để thành người xuất gia thật sự thông đạt Phật pháp.
Thứ hai, “trái lại tu tập những kinh nhỏ nhoi, nhánh ngọn, nông cạn, những câu tạp nhạp, những hạnh thế tục, nên để kinh điển của hàng vương giả làm loạn nguồn đạo, thích giảng những sự nghiệp, những việc đời dễ hiểu đó, cốt lấy lòng người khiến họ hoan hỷ, nhân đó có được danh văn”. Câu này ý nói người xuất gia chẳng học kinh giáo, hoàn toàn dùng văn chương, tạp chí, báo chí v.v… của người hiện tại làm tài liệu giảng dạy. Ở đây, chữ “vương giả” chẳng chỉ nhân vương mà là chỉ Ma Vương. Ma Vương muốn phá hoại Phật pháp, nhân vương dạy người tu Thập Thiện, duy trì xã hội an toàn. Văn chương do người hiện tại soạn ra chính là phá hoại Phật pháp, chỉ nhằm mục đích cầu danh văn, lợi dưỡng, chẳng nhằm hoằng pháp lợi sanh. Bởi thế, nội dung toàn là bàn nói chuyện thế gian, cốt sao vừa lòng người, ve vuốt đại chúng để được yêu thích, không gì chẳng phải là gây tạo nghiệp nhân ba ác đạo, sao sánh nổi với nghĩa thú chân thật của kinh Phật cho được?
Thứ ba, “người mới nghe pháp, kẻ hiểu biết kém, tưởng đó là bí quyết mầu nhiệm, bậc thông đạt sâu xa chẳng cho là hay”. Có những người theo đuổi sự nghiệp giáo dục, trình độ giáo dục hơn mức cao đẳng, văn chương chủ yếu dùng những câu dễ hiểu, nông cạn, rõ ràng; người hiện thời xem đến những văn chương trước tác đó có thể lãnh hội được ngay. Nhưng những ngôn luận, văn tự ấy đều là tác dụng của tâm ý thức, chuyên vận dụng khéo léo những chuyện nhân - ngã, thị - phi cốt sao người đọc khoái ý, so với kinh Phật khác biệt một trời một vực. Hễ càng đọc nhiều những truyền thuyết văn tự chẳng chánh đáng, càng thêm dễ mê hoặc, điên đảo. Nếu đọc tụng kinh điển Đại Thừa, ắt sẽ hỗ trợ khai ngộ. Tuy vậy, kinh điển thâm áo khó hiểu, khi đọc thuần thục sẽ tự nhiên chứng nhập cảnh giới. Như thường nói: “Kinh thư bất yếm bách hồi độc” (kinh sách chẳng ngại đọc lại trăm lần), đọc kinh có thể tu Tam Học Giới - Định - Huệ, trừ khử chấp trước, phân biệt, vọng tưởng. Hễ là bậc thông đạt đều hiểu sâu sa đạo lý này, đương nhiên đối với những sách tạp nhạp, văn chương thiển cận, họ chẳng xem là hay.
Thứ tư, “trời, rồng, quỷ thần chẳng coi đó là vui, trong lòng buồn bực, miệng nói như thế này: “Đại pháp sắp diệt nên đến nỗi như thế, bỏ việc giáo hóa diệu pháp, trái lại tuyên nói những câu tạp nhạp”. Chư thiên đẫm nước mắt, nhanh chóng bỏ đi”. Các vị trời, rồng hộ pháp quỷ thần, Bồ Tát v.v…đều giống đức Phật Thích Ca Mâu Ni, trông thấy hiện tượng này, đều vô cùng đau khổ, ứa nước mắt, chẳng ai không than thở. Tà tri tà kiến nhiễu loạn sự thanh tịnh của thế nhân, nhiễu loạn thế gian, hủy diệt Phật pháp. Thánh nhân có nói: “Quốc chi tương vong, tất xuất yêu nghiệt” (nước nhà sắp mất, yêu nghiệt ắt hiện); Phật pháp sắp diệt cũng vậy, tà tri tà kiến, yêu ma quỷ quái nhất định xuất hiện nhiễu loạn thế gian, hủy diệt Phật pháp. Nếu chúng ta là những kẻ hộ pháp nơi cửa Phật, chẳng thể đại lực hộ trì hoằng dương chánh pháp; trái lại vứt bỏ sự nghiệp hoằng pháp giáo hóa chúng sanh, tán đồng những ngôn luận, tạp chí thô thiển ấy, khiến chánh pháp diệt vong nhanh hơn, khiến cho thiên long hộ pháp đều đẫm nước mắt rời bỏ chúng ta.
Thứ năm, “do vậy pháp dần dần thấy bị bỏ phế, không người tinh ròng tu tập”. Do chúng ta chẳng biết thị - phi, thiện - ác, tà - chánh, điên đảo lầm loạn đến nỗi những hiện tượng ấy dần dần khuếch tán toàn thế giới, do sai lâu ngày chất chứa, đại chúng coi đó là đúng, cũng không cách nào nhận biết Phật pháp chân chánh, rất khó kiếm được người thật sự tinh ròng tu tập.
Đoạn kinh văn tiếp theo đây vô cùng trọng yếu, phần trên là Phật dạy chúng ta nhận thức hoàn cảnh, phần dưới Phật dạy các tỳ-kheo nên tu hành như thế nào mới chẳng đến nỗi phạm lỗi khiến chúng sanh bị lầm lạc. Nếu chúng ta có thể nghe theo lời Phật dạy dỗ, thật sự sửa đổi những lỗi lầm trước kia, thì cũng có thể gọi là “tu trì”. Biết lỗi liền sửa là một biểu hiện của trí huệ trong nhà Phật. Giờ đây chúng ta hãy nghe những lời Phật răn dạy, đó cũng là lời tổng kết cho phần Chánh Tông.
Chánh kinh:
Phật cáo tỳ-kheo:
- Ngô diệt độ hậu, hữu thử tà sự thập ngũ chi loại, linh pháp hủy diệt, nhất hà thống tai.
(Phật bảo tỳ-kheo:
- Sau khi ta diệt độ, có mười lăm loại tà sự như thế khiến pháp bị hủy diệt, đáng đau buồn thay!)
Phần trên, Phật nói một pháp, hai pháp, ba pháp, bốn pháp, năm pháp, tổng cộng đã nêu lên mười lăm tà sự tỳ-kheo sẽ mắc phải trong thời Mạt Pháp, đó cũng là những hiện tượng trong đời loạn. Thế nhưng, thật ra những sự việc chẳng đúng pháp rất nhiều, chẳng thể kể trọn, há nào chỉ có những sự như vừa mới nói ư! Trong tương lai, những tà pháp đó một khi xuất hiện trong thế gian này nhất định sẽ dẫn Phật pháp đi vào con đường hủy diệt. Bởi thế, Phật nói đến đây, đau lòng vô cùng, bèn cảm thán. Giờ đây, đức Phật lại nói tiếp:
Chánh kinh:
Nhược hữu tỳ-kheo dục đế học đạo, khí quyên ỷ sức, bất cầu danh văn, chất phác thủ chân, tuyên truyền chánh pháp.
(Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành, tuyên truyền chánh pháp)
“Đế” nghĩa là chân thật. Ở đây đức Phật răn dạy chúng ta: Nếu các vị muốn đạt được thành tựu trên con đường tu học Phật đạo, thì phải chú ý mấy nguyên tắc sau đây:
Thứ nhất, “hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn” (khí quyên ỷ sức). Ỷ nghĩa là mỹ lệ, Sức là trang sức. Phật khuyến cáo các tỳ-kheo hãy nên từ bỏ hưởng thụ vật chất. Bởi lẽ, người hiện tại tìm tòi hoa lệ, sanh hoạt xa xỉ, chẳng hạn như đạo tràng phải xây dựng sao cho giàu có, hoa lệ, đường bệ, y phục màu sắc phải diêm dúa, choáng lộn, lúc giảng kinh thuyết pháp cũng phải có lễ đài, trên lễ đài bày biện rực rỡ, diêm dúa như sân khấu. Đấy đều là những điều trái nghịch đạo giác, chẳng phải là điều người tu hành nên có.
Thứ hai, “chẳng cầu danh văn”: Chữ “danh văn” bao gồm ngũ dục lục trần, thất tình ngũ dục, là căn nguyên chướng đạo, người tu đạo phải từ bỏ cho thiệt sạch, chớ để nhiễm trước thì đạo tâm mới khỏi bị hao mòn.
Thứ ba, “chất phác, giữ lòng chân thành”: Đây chính là thái độ cần phải có. Phần trên đã có nói đến đạo lý “chúng ta tu hành chuộng thực chất chứ không chuộng hình thức”. “Chất phác” nghĩa là đơn giản, thô phác. “Thủ chân” là chân tâm thành ý, nghĩa là người học Phật chúng ta từ cuộc sống cho đến đạo tràng càng giản dị, đơn sơ càng hay, chớ thực hành kiểu Phật sự chạy theo thói đời, phải chân thật niệm Phật tu tập, giữ gìn cái tâm thanh tịnh, chẳng cần phải tiếp xúc với thế sự phiền não. Có một câu nói rất hay: “Tri sự đa thời thị phi đa” (càng biết nhiều việc, thị phi càng nhiều), những việc chẳng liên quan đến mình càng ít tiếp xúc, học Phật càng đơn thuần càng hay. Có tu học như vậy mới là tinh thần “chất phác, thủ chân”, mới là thái độ tu hành cần nên có.
Thứ tư, “tuyên truyền chánh pháp”: Các tỳ-kheo giảng kinh giới thiệu Phật pháp cho đại chúng, nhất định phải căn cứ vào kinh điển, kinh Phật thuần chánh. “Chánh kinh” còn gọi là Chánh Pháp. Nói ở mức cao hơn, cái gọi là “tuyên dương chánh kinh” cần phải dựa vào yếu tốt thời gian, địa phương mà quyết định. Chẳng hạn như tại chùa Đại Giác ở Cựu Kim Sơn, chỉ có thời gian chừng hai giờ, vì vậy, tôi chọn trong Đại Tạng Kinh bộ Phật Thuyết Thanh Tịnh Tâm Kinh. Lại có lần, có thời gian chừng sáu tiếng đồng hồ, tôi chọn bộ kinh này cũng là một bộ kinh nhỏ. Một phương thức khác là chọn lấy một phẩm của Đại Kinh, hoặc trích lấy một đoạn, hoặc chỉ chọn mấy câu kinh, xem thời gian mà định. Đương nhiên những kinh điển ấy đều phải có quan hệ mật thiết đối với những vấn đề sanh hoạt, tu trì và tu dưỡng thường nhật của chúng ta.
Chánh kinh:
Phật chi nhã điển, thâm pháp chi hóa, bất dụng đa ngôn, án bổn thuyết kinh, bất xả chánh cú, hy ngôn lũ trúng, bất thất Phật ý.
(Giảng giải kinh điển hay đẹp và giáo pháp sâu xa của Phật, chớ có nhiều lời, căn cứ theo những gì kinh nói, đừng bỏ chánh cú, lời ít trúng nhiều, chẳng mất ý Phật)
Trong đoạn khai thị này, đức Phật dạy chúng ta lúc tuyên dương Phật pháp, cần phải có thái độ như thế nào. Kinh Kim Cang nói: “Phật là bậc Chân Ngữ, là bậc Thật Ngữ, là bậc Như Ngữ, là bậc Bất Cuống Ngữ, là bậc Bất Dị Ngữ”. Phật dạy chúng ta lúc vì người khác giảng giải những Phật lý sâu nhiệm, “chớ có nhiều lời, căn cứ vào những gì kinh nói”: chẳng cần thêm nhành, thêm lá, cứ chân thật dựa vào những gì kinh điển đã nói là tốt rồi, tự nhiên chẳng bị lầm lạc. Sợ nhất là tự mình tùy tiện phát huy nghĩa luận, lầm lạc trăm bề. Đặc biệt là đối với kẻ sơ học, chọn lựa kinh điển, tối trọng yếu là phải chú ý đến trình độ hiểu biết của mình. Nếu chính mình đọc chẳng hiểu kinh điển, ra ngoài giảng giải cho người khác rất dễ mắc sai lầm. Đồng thời, giảng kinh cần phải “khế lý, khế cơ”. Thật sự hiểu rõ nghĩa kinh gọi là “khế lý”, thuận theo nhu cầu của chúng sanh mà giảng thì gọi là “khế cơ” thì mới hòng làm cho chúng sanh đạt được lợi ích chân thật.
Bởi vậy nói: Khi chúng tôi chọn ra bản kinh nào, bất luận là một bộ hay một đoạn kinh văn, chỉ toàn là căn cứ theo ý Phật mà nói, thật sự bổn phận của chúng tôi chỉ là nói sao cho kinh điển ấy trở thành hoạt bát sinh động, thêm vào công phu tu học của chính mình và những thể nghiệm trong sanh hoạt thường nhật, khiến cho chúng sanh thật sự hiểu rõ tinh thần Phật pháp. Nói cách khác, tự mình làm vậy thì mới đạt được lợi ích chân thật nơi lời dạy dỗ của Phật Đà, đem những điều mình tâm đắc, quá trình nghiên cứu thưa trình chi tiết cùng đại chúng thì mới kể là viên mãn.
“Đừng bỏ chánh cú, lời ít trúng nhiều, chẳng mất ý Phật”: Câu này ý nói người tu hành có thành tựu, chẳng những y chiếu bổn ý của kinh Phật để giảng giải, mà còn có thể đoán nhận căn cơ của thính chúng, nói ra những điều tâm Phật muốn nói nhưng chưa nói, khiến cho chúng sanh hiểu rõ ý Phật, đây chẳng phải là điều đơn giản chi! Chẳng hạn như cuốn Di Đà Kinh Yếu Giải của đại sư Ngẫu Ích đời Thanh là một thuyết minh cụ thể cho “đừng bỏ chánh cú, lời ít trúng nhiều, chẳng mất ý Phật”. Trong cuốn Di Đà Kinh Yếu Giải, đại sư Ngẫu Ích giải thích chữ “phát Bồ Đề tâm” tự xưa đến nay chưa có ai có thể xiển phát hay hơn được nữa. Hết thảy kinh luận chú giải câu “phát Bồ Đề tâm” đều khác với cách thuyết pháp của đại sư Ngẫu Ích. Những bản chú giải của cổ đức chưa có ai xem hiểu được ý nghĩa, nhưng đến khi đại sư Ngẫu Ích vừa chú giải câu này, ai nấy đều đột nhiên đại ngộ. Ngài nói: “Nếu tâm có thể phát nguyện cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ, đó chính là tâm Vô Thượng Bồ Đề”. Đại sư còn nói: “Thích Ca Mâu Ni Phật do niệm A Di Đà Phật mà thành Phật”, thật là những câu trước đây chưa từng có. Nếu chúng ta suy tưởng kỹ càng, không sai một chút nào, viên diệu vô cùng.
Lại còn có những vị cao tăng đời Đường, vì chúng ta nói những lời “hy ngôn” (lời hiếm có) như nói kinh Vô Lượng Thọ là chân thật nhất trong những sự chân thật, viên mãn nhất trong các viên mãn, đốn nhất trong các pháp đốn, hoặc nói Hoa Nghiêm, Pháp Hoa dẫn đường cho kinh Vô Lượng Thọ, kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa là Tự Phần, kinh Vô Lượng Thọ là Chánh Tông Phần, đều là những lời khuyến dụ khéo léo, nhưng chẳng sai chân nghĩa của Phật. Đại sư Liên Trì đời Minh từng nói kinh Vô Lượng Thọ và kinh A Di Đà cùng là một bộ kinh, Ngài gọi là Đại Bổn và Tiểu Bổn, kinh Vô Lượng Thọ tức là kinh A Di Đà Đại Bổn, kinh A Di Đà là kinh Vô Lượng Thọ Tiểu Bổn; chỉ là kinh văn dài ngắn sai khác, chứ nội dung hoàn toàn chẳng sai biệt. Cư sĩ Bành Tế Thanh triều Thanh cũng nói ra hy ngôn, ông nói: “Vô Lượng Thọ kinh là Trung Bổn Hoa Nghiêm (kinh Hoa Nghiêm bản tám mươi cuốn là Đại Bổn Hoa Nghiêm, kinh A Di Đà là Tiểu Bổn Hoa Nghiêm), bởi lẽ, cuối kinh Hoa Nghiêm là mười đại nguyện vương dẫn quay về Cực Lạc thì mới kể là viên mãn”. Ba bộ kinh hoàn toàn tương đồng. “Hy ngôn lũ trúng” (lời hiếm có trúng nhiều) là vì người chân chánh tu học thường phát hiện những ý nghĩa chân thật, tức là tứ đẳng, tứ đồng: tâm đồng tâm Phật, nguyện đồng Phật nguyện, hạnh đồng Phật hạnh, giải đồng Phật giải. Nói đơn giản là thân, ngữ, ý giống với Phật. Đấy là những danh ngôn hay nhất của cổ đức.
Tiếp theo đây là mấy câu Phật dạy chúng ta những điều cần phải tuân thủ trên phương diện sanh hoạt.
Chánh kinh:
Thô y thú thực, đắc mỹ bất cam, đắc thô bất ố, y thực hảo xú, tùy thí giả ý, bất dĩ sân hỷ.
(Áo thô, cơm dở, được tốt chẳng mừng, được xấu chẳng ghét, cơm áo tốt xấu tùy lòng người thí, chẳng vì đó mà mừng hay giận)
Phật bảo các tỳ-kheo: Y phục chỉ cần giữ ấm, che thân là được rồi, chẳng cần phải hoa lệ, hợp thời trang; ăn uống chỉ cần no bụng, trà thô cơm nhạt, chẳng phải tìm tòi vị ngon. Đồ ăn đi xin mỗi ngày đều chẳng giống nhau, nếu xin được cơm, thức ăn rất ngon, chẳng sanh tâm hoan hỷ; gặp thứ chẳng hợp bụng, miệng, cũng đừng khởi phiền não. Tất cả hết thảy vật chất được cúng dường phải tùy theo tâm ý người bố thí, tùy duyên, không phan duyên, đừng phân biệt tốt xấu, tu tâm thanh tịnh trong hoàn cảnh ấy. Quán sát kỹ những tỳ-kheo trong thời hiện đại thường được hàng cư sĩ tại gia cúng dường trọng hậu vượt quá số lượng tỳ-kheo cần dùng, thường dễ khiến cho người xuất gia khởi tâm thoái đọa, chẳng nỗ lực dụng công.
Hiện tại, người ngoại quốc khảo sát nhận thấy người sống ở Đại Lục Trung Quốc khỏe mạnh, trường thọ đứng đầu thế giới. Họ nghiên cứu nguyên nhân, sau khi so sánh, nhận thấy về phương diện ẩm thực, những người đó chẳng quan tâm lắm đến vấn đề dinh dưỡng, vệ sinh cũng chẳng màng, sanh sống thanh đạm, thế mà mạnh khỏe, sống lâu. Còn người có tiền ở Đài Loan, khảo cứu vệ sinh này nọ, ngày ngày tìm tòi những món ngon lạ, mỗi bữa chẳng giống nhau, ruột, bao tử phải làm việc quá tải, kết quả sanh ra những chứng bệnh kỳ quái. Hãy xem trâu, dê ăn cỏ xanh, thế mà chúng vừa mập vừa khỏe. Người ngoại quốc ăn uống cũng rất đơn giản. Đủ thấy thức ăn tốt nhất cho sức khỏe là thức ăn đơn giản. Tục ngữ có câu:
Thanh thái, đậu hủ trường thọ bách tuế,
Kê, áp, ngư, nhục bách bệnh họa nhân.
(Rau xanh, đậu phụ sống thọ trăm năm,
Gà, vịt, thịt, cá cội nguồn trăm bệnh)
Chánh kinh:
Nhiếp thân khẩu ý, thủ chư căn môn, bất vi Phật giáo.
(Thâu tóm thân miệng ý, giữ các căn môn, chẳng trái lời Phật dạy)
Mấy câu này và yếu lãnh tu học “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối” trong chương Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm ý nghĩa tương đồng, tức là giữ gìn chẳng cho ba nghiệp thân, khẩu, ý tạo tác. “Chư căn môn” chỉ sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Thâu nhiếp sáu căn, chẳng rong ruổi theo sáu trần, một dạ hướng về Phật, niệm niệm là Phật, niệm đến mức "phản văn tự tánh" (xoay trở lại nghe nơi tự tánh), nghịch trần hiệp giác, đạt được Nhất Tâm, chẳng trái nghịch đạo giác ngộ. Trái lại, nếu chẳng giữ được sáu căn, tạo tác ác nghiệp nơi thân, khẩu, ý, chẳng biết giác ngộ hồi đầu, chẳng những tham Thiền chẳng thể đắc lực, học Giáo chẳng thể đại khai viên giải, niệm Phật cũng chẳng thể đạt Nhất Tâm.
Đoạn kinh này ý nói những lời răn dạy, giáo hóa của đức Phật, ta nhất định phải tuân thủ, nhất định chẳng được trái nghịch. Nhưng nếu dựa trên mấu chốt của những điều răn dạy, giáo huấn ấy là “nhiếp thân khẩu ý, giữ các căn môn” mà tu tập thì sẽ tự nhiên y giáo phụng hành, chẳng trái nghịch lời Phật dạy.
Chánh kinh:
Niệm mạng thậm cự, hoảng hốt dĩ quá, như mộng sở kiến, giác bất tri xứ, tam đồ chi nạn, bất khả xưng kế, cẩn tu Phật pháp, do cứu đầu nhiên.
(Nghĩ mạng rất giống bó đuốc, lờ mờ thoáng qua giống như trong mộng thấy, tỉnh giấc chẳng biết về đâu, cái nạn tam đồ chẳng thể tính kể, siêng tu Phật pháp giống như cứu đầu cháy)
Đoạn này là lời Phật cảnh tỉnh chúng ta:
“Niệm mạng thậm cự”, Cự là cây đuốc, tỷ dụ thời gian bó đuốc thắp sáng rất ngắn, sanh mạng chúng ta cũng ngắn ngủi, tạm bợ như bó đuốc, cháy hết rất nhanh. “Lờ mờ thoáng qua, giống như trong mộng thấy, tỉnh giấc chẳng biết về đâu”: Chữ “giác” có nghĩa là tỉnh giấc mộng. Đoạn kinh văn này tỷ dụ đời người rất ngắn ngủi, tạm bợ, giống hệt một giấc mộng, lờ mờ, loáng thoáng vụt qua mất, đến lúc tỉnh mộng, nghĩ lại những cảnh trong mộng chẳng biết là ở đâu cả!
“Cái nạn tam đồ chẳng thể tính kể”: Tam Đồ là ba ác đạo địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. “Xưng” là nói kể, “Kế” là tính toán, đo lường. Phật dạy “thân người khó được”, mất thân người dễ dàng, nhưng đọa lạc tam đồ lại càng dễ dàng hơn. Tam đồ khổ nạn vô số, không cách gì tính lường được, cũng chẳng thể nói rõ ràng được. Theo như kinh nói, một ngày trong quỷ đạo bằng một tháng trong nhân gian. Chúng ta mồng Một, ngày Rằm cúng bái quỷ thần cũng giống như mời họ ăn bữa trưa, bữa chiều. Một năm trong nhân gian chỉ là mười hai ngày trong quỷ đạo, bởi thế tuổi thọ của họ ít nhất cũng là ngàn năm, ngàn ngàn năm. Địa ngục càng khổ hơn, một ngày trong địa ngục dài hơn hai ngàn bảy trăm năm của nhân gian. Trung Quốc được gọi là nước cổ có nền văn minh năm ngàn năm, chưa đến hai ngày trong địa ngục! Tính toán như thế, tính ra thọ mạng trong địa ngục phải là vạn năm, vạn vạn năm, thật rất đáng sợ! Tạo tội nghiệp ba ác đạo, vào đó thì dễ, thoát ra thì khó, chẳng thể không dè chừng. Bởi thế, tiếp theo đó, Phật nói: “Siêng tu Phật pháp giống như cứu đầu cháy”. Chữ “đầu cháy” chỉ nỗi khổ phải chịu trong tam ác đạo khác nào lửa cháy đầu tóc. Nếu như nhận biết tam đồ đáng sợ, ắt sẽ mau chóng siêng tu học Phật pháp, khác nào gấp rút dập lửa đang cháy ngay trên đầu tóc.
Chánh kinh:
Ngũ Giới, Thập Thiện, Lục Độ vô cực, Tứ Đẳng Tứ Ân, trí huệ thiện quyền, hàm khả tinh hành, tuy bất trị Phật thế, xuất gia vi đạo, học bất đường quyên, bình kỳ bổn tâm, mẫn niệm nhất thiết, thập phương mông ân, Phật thuyết như thị.
(Ngũ Giới, Thập Thiện, Lục Độ tột bậc, Tứ Đẳng, Tứ Ân, trí huệ thiện quyền đều có thể chuyên ròng tu tập, tuy Phật chẳng ở đời, xuất gia tu đạo, chẳng uổng phí cái học, bình cái tâm mình, nghĩ thương hết thảy, mười phương nhờ ơn, Phật nói như thế)
“Ngũ Giới Thập Thiện” là cơ sở căn bản của việc học Phật.
“Lục Độ vô cực”: Lục Độ là đại hạnh của Bồ Tát Đại Thừa gồm Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, Bát Nhã. Bố Thí nói đơn giản là buông xuống, Trì Giới là giữ pháp, Nhẫn Nhục là tâm nhẫn nại, Tinh Tấn là nỗ lực, Thiền Định là tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh khởi tác dụng là trí huệ Bát Nhã. Nếu Bồ Tát tu đến khi trí huệ Bát Nhã hiện tiền sẽ hành Lục Độ viên mãn vô lượng, nên gọi là “Lục Độ vô cực”.
“Tứ Đẳng, Tứ Ân”: Tứ Đẳng xuất pháp từ kinh Lăng Nghiêm.
1) Danh tự tương đẳng:
Danh hiệu của chư Phật tương đồng, bình đẳng, danh hiệu kiến lập từ trí huệ đức năng của Phật. Chẳng hạn như Thích Ca Mâu Ni Phật nghĩa là Năng Nhân Tịch Mặc, chỉ Phật tu hành thành tựu trong thế giới Sa Bà Kham Nhẫn, cho nên có danh hiệu ấy. A Di Đà Phật nghĩa là Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ, là do nguyện lực thành tựu. Danh hiệu tuy bất đồng, nhưng trí huệ đức năng của hết thảy chư Phật tương đồng, căn cứ vào nhân duyên của chúng sanh mà định, người tu hành chẳng được khởi phân biệt, chấp trước vào đó, hoặc là có tư tưởng môn hộ.
2) Ngữ đẳng:
Ý nói ngôn ngữ của hết thảy chư Phật tương đồng, chẳng có sai biệt.
3) Thân đẳng:
Ý nói Pháp Thân của chư Phật hoàn toàn tương đồng, cùng có đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi tùy hình hảo.
4) Pháp đẳng:
Hết thảy pháp của chư Phật nói ra đều tương đồng, bình đẳng. Nay chúng ta y chiếu lời một đức Phật dạy, cũng giống như y chiếu hết thảy chư Phật giáo hóa, không hai, không khác. Niệm A Di Đà Phật có thể thành tựu, niệm Quán Âm Bồ Tát cũng có thể thành tựu, niệm Dược Sư Như Lai cũng có thể thành tựu, hoặc là niệm Địa Tạng Bồ Tát cũng có thể thành tựu; nhưng cần phải có nguyên tắc: phải học triệt để một pháp môn, suốt đời chẳng biến cải, nhất định sẽ thành tựu. Như hiện tại chúng ta một bề chuyên niệm A Di Đà Phật, hồi hướng phát nguyện cầu sanh Tây Phương, tu đến mức tâm địa thanh tịnh, khi lâm chung nhất định Phật, Bồ Tát đến tiếp dẫn.
“Tứ Ân” là ân cha mẹ, ân Phật, ân quốc gia, ân chúng sanh.
“Trí huệ thiện quyền đều có thể chuyên ròng tu tập, tuy Phật chẳng ở đời, xuất gia tu đạo, chẳng uổng phí cái học, bình cái tâm mình, nghĩ thương hết thảy, mười phương nhờ ơn, Phật nói như thế”: Phật khuyên răn chúng ta, tu hành phải lấy lý trí làm cơ sở, đừng xử sự theo cảm tình. Theo nguyên tắc này thì chính mình mới đến nỗi chẳng bị chướng ngại, tiếp xúc đại chúng cũng chẳng chướng ngại người khác. Tiến hơn lên là tự hành, độ người, lại càng tinh tấn tu hành. Dẫu hiện tại Phật không hiện hữu trong thế gian, nhưng mình đã xuất gia tu đạo, thì phải tuân thủ những điều Phật dạy răn, hệt như Phật còn tại thế chẳng khác, y giáo phụng hành, những giáo pháp đã học nhất định chẳng bị lãng phí, nhất quyết thành tựu.
“Bình cái tâm mình” tức là tâm địa thường giữ thanh tịnh, bình đẳng, từ bi đãi người, chính là như thường nói: “Tâm bình thường là đạo”, bình tâm tu đạo, công ắt tự nhiên thành, chẳng những tự mình được lợi, mười phương chúng sanh cũng học theo gương ấy, cũng được nhờ ân huệ, đạt được điều tốt. Dẫu chẳng có ý tưởng hoằng hóa, Phật pháp chân thật đã tự hoằng dương đến mười phương.
Tự Phần, Chánh Tông Phần của kinh văn đến đây là hết. Trên đây đều là những điều do chính miệng Phật nói ra. Câu cuối cùng là do ngài A Nan nói khi kết tập kinh điển.
Chánh kinh:
Chư tỳ-kheo bi hỷ, tiền tự quy Phật, tác lễ nhi khứ.
(Các tỳ-kheo vừa buồn vừa mừng, đến trước Phật, quy y, làm lễ mà đi)
Câu sau cùng của kinh này là phần Lưu Thông. Do kinh này được dịch vào giai đoạn sơ khởi, cho nên phần Lưu Thông giống với Tự Phần, câu ngắn gọn, đơn giản. Những kinh dịch trong giai đoạn sau (từ thời Tùy, Đường trở đi), công tác dịch kinh so ra hoàn bị hơn, văn tự dài, câu văn cũng rõ ràng hơn.
Đoạn Lưu Thông này tuy giản khiết, nhưng ý nghĩa vẫn viên mãn, nói rõ ràng: đại chúng khi ấy nghe những lời Phật nói xong, vừa bi vừa hỷ. Bi là buồn thương cho những tướng suy sụp thời Mạt, cảm thấy đau buồn thống khổ, Hỷ là mừng mình may mắn được gặp Thế Tôn, được nghe chánh pháp. Ngay đó, mọi người đến trước đức Phật, thỉnh cầu thọ trì Tam Quy, làm lễ, lui ra.
Chúng ta đọc đến bộ kinh này, tuy chẳng gặp Phật nơi đời, nhưng tâm tình vẫn tương đồng với đại chúng trong hội, chúng ta cũng có thể đến trước Phật, quy y Tự Tánh Tam Bảo, y giáo phụng hành, chẳng cô phụ những lời giáo hối của đức Phật.
Phật Thuyết Đương Lai Biến Kinh Giảng Ký hết
(hoàn tất ngày 11 tháng 09 năm 2004)
(1) Bộ kinh này là kinh số 395, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh cuốn 12, thuộc bộ Niết Bàn, do ngài Trúc Pháp Hộ, người xứ Nhục Chi dịch vào thời Tây Tấn.
(2) Các vị tỳ-kheo thường theo hầu đức Phật nên gọi là “thường tùy chúng”.
NHỮNG ĐIỀU BẠN CÓ THỂ TÌM HIỂU PHẬT HỌC MỘT CÁCH HIỆU QUẢ THÔNG QUA TRANG WEB NÀY